Phát triển kinh tế ven biển Việt Nam – thực trạng và giải pháp

ThS. Nguyễn Thị Hồng Minh
Trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định

(Quanlynhanuoc.vn) – Kinh tế ven biển Việt Nam phát triển nhanh, đóng vai trò động lực quan trọng cho tăng trưởng quốc gia nhờ các ngành chủ lực, như: vận tải biển, du lịch, thủy sản và các khu kinh tế ven biển. Hệ thống hạ tầng cảng biển, logistics ngày càng hiện đại, thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, phát triển kinh tế ven biển còn đối mặt với nhiều thách thức,như: khai thác tài nguyên thiếu bền vững, ô nhiễm môi trường, quy hoạch và liên kết vùng chưa đồng bộ. Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế ven biển bền vững, hiệu quả trong thời gian tới.

Từ khóa: Kinh tế ven biển; bền vững; phát triển; du lịch biển; vận tải biển; thủy sản.

1. Đặt vấn đề

Việt Nam sở hữu nhiều lợi thế tự nhiên và địa kinh tế để phát triển kinh tế ven biển. Nước ta có vùng biển rộng gấp ba lần diện tích đất liền với các tuyến hàng hải quốc tế quan trọng trong khu vực và quốc tế, đường bờ biển kéo dài hơn 3.260 km cùng hơn 3.000 đảo và quần đảo lớn nhỏ1. Điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương mà còn thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế ven biển trọng điểm. 

Cùng với lợi thế về địa lý, hệ sinh thái biển Việt Nam đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế. Là một trong mười trung tâm đa dạng sinh học biển lớn nhất thế giới, Việt Nam sở hữu khoảng 12.000 loài sinh vật phân bố trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái đặc trưng. Sự phong phú này không chỉ bảo đảm nguồn lợi thủy sản dồi dào mà còn mở rộng cơ hội cho các ngành kinh tế, như: nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái và bảo tồn biển. Ngoài ra, vùng biển Việt Nam chứa khoảng 35 loại khoáng sản, thuộc các nhóm nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng và khoáng sản lỏng, tạo tiềm năng khai thác phục vụ công nghiệp. Hệ thống bãi biển, khí hậu ôn hòa và cảnh quan ven biển đặc sắc cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy du lịch biển, đặc biệt là du lịch nghỉ dưỡng cao cấp.

Nhận thức rõ tiềm năng và vai trò của kinh tế biển trong phát triển kinh tế – xã hội, Đảng và Nhà nước đã đề ra các định hướng phát triển kinh tế biển, ven biển. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (năm 1982), kinh tế biển đã được xác định là một trọng tâm phát triển. Quan điểm này tiếp tục được cụ thể hóa qua các kỳ đại hội và đặc biệt là Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng với tiềm năng sẵn có đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế ven biển Việt Nam thời gian qua. Bài viết phân tích thực trạng phát triển kinh tế ven biển Việt Nam, từ đó, đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế ven biển trong tương lai.

2. Khái quát về kinh tế ven biển 

Kinh tế ven biển được định nghĩa là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động kinh tế trên biển và trên đất liền ven biển, trong đó biển đóng vai trò chính trong cung cấp tài nguyên (hải sản, khoáng sản, năng lượng), đất liền là nơi tổ chức sản xuất, chế biến, hậu cần phục vụ khai thác biển. Đây là thành phần quan trọng của kinh tế biển và không thể tách rời khỏi các hoạt động kinh tế trên đất liền ven biển.

Theo Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, theo đó, khu kinh tế ven biển được định nghĩa là khu kinh tế được thành lập ở khu vực ven biển và địa bàn lân cận khu vực ven biển. Mặc dù định nghĩa này tập trung vào các khu kinh tế được quy hoạch, khái niệm kinh tế ven biển trên thực tế bao hàm rộng hơn, bao gồm các hoạt động kinh tế diễn ra ở vùng ven biển và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các nguồn lợi và lợi thế do biển mang lại. Các nguồn lợi này vô cùng đa dạng, từ tài nguyên sinh vật (hải sản, rong biển), tài nguyên không tái tạo (dầu khí, khoáng sản), tài nguyên du lịch (bãi biển, cảnh quan) đến các lợi thế về giao thông vận tải và không gian phát triển.

Phát triển kinh tế ven biển dựa trên nguồn lợi từ biển và vị trí địa lý là hướng tiếp cận có cơ sở lý thuyết vững chắc. Adam Smith (1776) nhấn mạnh, các vùng duyên hải có lợi thế tự nhiên nhờ khả năng kết nối với thương mại đường biển, mở rộng phạm vi thị trường và thúc đẩy phân công lao động sâu rộng. Lý thuyết này được củng cố bởi nghiên cứu của Rappaport và Sachs (2003), chỉ ra rằng 57% thu nhập của Hoa Kỳ tập trung ở các khu vực cách bờ biển không quá 80 km, mặc dù chỉ chiếm 13% diện tích lãnh thổ. Điều này phản ánh tính không đồng nhất của không gian phát triển, trong đó vị trí ven biển trở thành yếu tố quyết định tạo ra cực tăng trưởng.

Nhờ khai thác các lợi thế đó, các ngành kinh tế biển đa dạng, như: thủy sản (khai thác, nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu), du lịch biển, vận tải và cảng biển, cùng các ngành mới nổi (năng lượng tái tạo, khai thác khoáng sản biển, công nghệ sinh học biển) sẽ đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Các khu kinh tế ven biển được phát triển sẽ là các cực tăng trưởng thu hút đầu tư, thúc đẩy đô thị hóa, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, mang lại vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Sự phát triển này tạo hiệu ứng lan tỏa, kích thích các lĩnh vực khác, đa dạng hóa lực lượng lao động, nâng cao thu nhập và đóng góp bền vững vào ngân sách nhà nước. Vị trí ven biển tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại trong nước và quốc tế thông qua các cảng biển, thúc đẩy xuất, nhập khẩu và giao lưu văn hóa, kinh tế.

Trong bối cảnh hiện nay, phát triển kinh tế ven biển còn có ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia. Củng cố kinh tế, bảo đảm sinh kế cho cư dân ven biển là giải pháp then chốt để tăng cường quốc phòng – an ninh tại các khu vực này, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

3. Thực trạng phát triển kinh tế ven biển của Việt Nam

Thứ nhất, kinh tế các địa phương ven biển phát triển mạnh mẽ, đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cả nước. 

Trong hơn một thập kỷ vừa qua, các địa phương ven biển ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia thông qua việc đóng góp tỷ lệ lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và là động lực chủ yếu góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Theo Cục Thống kê, bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2011 – 2022, tăng trưởng của các địa phương ven biển đóng góp 47,6% vào tăng trưởng cả nước. Trong đó, TP. Hồ Chí Minh với vị thế là đô thị hạt nhân của vùng Đông Nam Bộ và một trung tâm phát triển kinh tế biển hàng đầu đã có đóng góp vượt trội, đạt trung bình 16,82% vào tăng trưởng GDP cả nước, cao nhất trong số các tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, sự đóng góp tích cực từ các địa phương ven biển, như: Hải Phòng với 5,42% và Quảng Ninh ở mức 3,11% củng cố thêm vai trò then chốt của vùng kinh tế này.

Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân hằng năm của các tỉnh ven biển trong hơn 10 năm qua đạt khoảng 6,12%, vượt trội hơn so với mức tăng trưởng chung 6,06% của cả nước. Trong đó, Hải Phòng là một minh chứng điển hình với mức tăng trưởng GRDP thuộc nhóm dẫn đầu cả nước,với 10,75% mỗi năm trong giai đoạn 2011 – 2022, phản ánh sự khai thác hiệu quả các lợi thế đặc thù của một tỉnh ven biển. Ngoài ra, các tỉnh như: Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Ninh Thuận và Quảng Nam cũng duy trì tốc độ tăng trưởng GRDP cao, góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung của toàn vùng ven biển cũng như cả nước2.

Sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng này đã trực tiếp nâng cao chất lượng đời sống người dân, thể hiện qua sự gia tăng của GRDP bình quân đầu người. Trong giai đoạn 2011 – 2022, GRDP bình quân đầu người tại các tỉnh ven biển không chỉ tăng lên mà còn duy trì ở mức cao hơn đáng kể 1,01 – 1,05 lần so với bình quân chung cả nước. Đặc biệt, một số địa phương đã đạt được những thành tựu vượt bậc với GRDP bình quân đầu người cao gấp nhiều lần so với mức trung bình quốc gia, như Bà Rịa – Vũng Tàu gấp 3,72 lần, Quảng Ninh gấp 2,06 lần và Hải Phòng gấp 1,81 lần3. Điều này cho thấy, sự giàu có và mức sống cao hơn ở các khu vực kinh tế biển phát triển. 

Thứ hai, các ngành kinh tế ven biển chủ lực được chú trọng phát triển.

(1) Vận tải biển hướng tới việc trở thành xương sống của kinh tế ven biểnNgành vận tải biển được xác định là lĩnh vực giữ vai trò then chốt trong phát triển kinh tế ven biển. Trong những năm trở lại đây, Việt Nam dần sở hữu hệ thống cảng biển phát triển mạnh, trong đó Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh và Bà Rịa – Vũng Tàu đã lọt vào nhóm 50 cảng biển có lượng hàng container thông qua lớn nhất thế giới.

Lượng hàng hóa qua cảng biển tăng trưởng nhanh chóng. Năm 2022, tổng sản lượng hàng hóa đạt 368,6 nghìn tỷ tấn, tăng 2,3 lần so với năm 2011. Trong đó, hàng nhập khẩu tăng mạnh nhất với 2,9 lần, phản ánh nhu cầu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngày càng cao. Hàng xuất khẩu cũng tăng 2,5 lần, cho thấy sự vươn lên của Việt Nam trên thị trường quốc tế4.

Không chỉ hàng hóa, vận tải hành khách cũng là lĩnh vực có bước tiến đáng kể. Trước khi chịu ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19, giai đoạn 2011 – 2019, vận tải hành khách tăng 9,7%/năm, cao hơn mức trung bình 8,5%/năm của cả nước. Mặc dù có sự suy giảm trong giai đoạn 2020 – 2022, nhưng đến năm 2024, đã dần phục hồi, khẳng định vai trò quan trọng của vận tải biển trong kết nối kinh tế và du lịch.

(2) Du lịch biển tiếp đà phát triển mạnh mẽDu lịch biển không chỉ là ngành kinh tế mũi nhọn mà còn tạo ra hàng triệu việc làm, từ dịch vụ lưu trú, ẩm thực đến các hoạt động vui chơi, giải trí. Việt Nam sở hữu nhiều trung tâm du lịch biển nổi bật, như: Hạ Long, Nha Trang, Phú Quốc thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước.

Sự phát triển của du lịch biển thể hiện rõ qua số lượng cơ sở lưu trú. Năm 2021, các địa phương ven biển chiếm 53,6% tổng số doanh nghiệp lữ hành và 66,7% cơ sở lưu trú trên cả nước. Điều này cho thấy, vai trò chủ đạo của du lịch biển trong toàn ngành Du lịch. Sau thời gian bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, năm 2024, đánh dấu sự phục hồi mạnh mẽ của ngành Du lịch. Số lượt khách nội địa đạt 101,3 triệu, vượt mức trước đại dịch và tăng 168,3% so với kế hoạch. Nhờ đó, doanh thu du lịch lữ hành cũng ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, đạt 24,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 68,2% tổng doanh thu du lịch lữ hành cả nước. TP. Hồ Chí Minh dẫn đầu với 17,7 nghìn tỷ đồng, tiếp theo là Đà Nẵng với 2,3 nghìn tỷ đồng, Khánh Hòa đạt 1,4 nghìn tỷ đồng và Quảng Ninh với 608,5 tỷ đồng5.

(3) Ngành Thủy sản ổn định vai trò trụ cột trong phát triển kinh tế ven biểnNgành Thủy sản đã có những bước tiến đáng kể, trở thành một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế ven biển. Trong giai đoạn 2011 – 2022, ngành Thủy sản đã có sự tăng trưởng vượt bậc cả về sản lượng, chất lượng và giá trị xuất khẩu. Tổng sản lượng thủy sản đạt 9,06 triệu tấn vào năm 2022, tăng 53% so với năm 2011. Đáng chú ý, tỷ trọng nuôi trồng thủy sản chiếm xấp xỉ 59,93% tổng sản lượng, thể hiện sự chuyển dịch sang mô hình bền vững, giảm phụ thuộc vào khai thác tự nhiên6.

Kim ngạch xuất khẩu thủy sản cũng đạt mức kỷ lục 10,92 tỷ USD vào năm 2022, tăng gần 2,5 lần so với năm 20117. Thành tựu này giúp Việt Nam duy trì vị thế thứ 3 thế giới về xuất khẩu thủy sản, đặc biệt với các sản phẩm chủ lực, như: tôm, cá tra và hải sản chế biến. Các doanh nghiệp trong nước đã nâng cao khả năng chế biến sâu, đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường khó tính như Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ, Nhật Bản góp phần nâng tầm thương hiệu thủy sản Việt Nam trên thế giới. Bên cạnh đó, hạ tầng phục vụ thủy sản được cải thiện đáng kể. Hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão được đầu tư mở rộng, giúp ngư dân khai thác hiệu quả hơn, nâng cao thu nhập và đảm bảo an toàn trong hoạt động đánh bắt.

(4) Các khu kinh tế ven biển đóng vai trò thu hút đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tếCác khu kinh tế ven biển đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế tại các địa phương ven biển. Hiện nay, cả nước có 19 khu kinh tế ven biển, trong đó có 18 khu đã đi vào hoạt động, thu hút khoảng 40% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của cả nước. Sự phát triển của các khu kinh tế không chỉ góp phần tạo việc làm mà còn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hơn.

Nhiều khu kinh tế ven biển đã trở thành điểm sáng trong nền kinh tế. Tiêu biểu, khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) và khu kinh tế Nghi Sơn (Thanh Hóa) đóng góp đáng kể vào thu ngân sách địa phương, chiếm lần lượt 80% và 61,3% tổng thu ngân sách tỉnh. Trong khi, khu kinh tế Vân Phong (Khánh Hòa) và khu kinh tế Phú Quốc (Kiên Giang) tập trung thu hút các dự án lớn về du lịch, dịch vụ và công nghiệp chế biến, tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho kinh tế khu vực.

Bên cạnh thu hút đầu tư, hạ tầng tại các khu kinh tế ven biển cũng được đầu tư mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong và ngoài nước. Việc phát triển hệ thống giao thông kết nối cảng biển, đường cao tốc ven biển không chỉ giúp giảm chi phí logistics mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Với những lợi thế này, các khu kinh tế ven biển tiếp tục đóng vai trò then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế biển, ven biển của đất nước.

Mặc dù kinh tế ven biển đã có những bước tiến đáng kể trong thời gian qua, nhưng thực tế vẫn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập khiến cho quá trình phát triển chưa thực sự hiệu quả:

Thứ nhất, chưa có sự phát triển đồng bộ giữa các vùng ven biểnHiện nay, sự phát triển kinh tế ven biển không đồng đều giữa các khu vực, tạo ra sự chênh lệch rõ rệt về mức độ thịnh vượng giữa các địa phương. Những tỉnh, thành phố có lợi thế về cảng biển, du lịch, như: Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu phát triển mạnh mẽ, thu hút đầu tư và có tốc độ tăng trưởng cao. Ngược lại, các địa phương, như: Quảng Trị, Phú Yên, Bình Định gặp khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư, hạ tầng còn hạn chế, khiến kinh tế chưa thể bứt phá.

Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là thiếu quy hoạch liên kết vùng. Mỗi địa phương vẫn chủ yếu phát triển theo hướng riêng lẻ, chưa có sự phối hợp với nhau, dẫn đến sự cạnh tranh không cần thiết và lãng phí nguồn lực. Trong đó, nhiều tỉnh đều đầu tư vào cảng biển hoặc khu công nghiệp nhưng không có chiến lược khai thác hợp lý, dẫn đến tình trạng dư thừa công suất ở nơi này nhưng lại thiếu hụt ở nơi khác.

Thứ hai, ô nhiễm môi trường chưa được kiểm soátSự hình thành và phát triển của các khu kinh tế ven biển, các khu du lịch cùng với hoạt động khai thác tài nguyên đã kéo theo những hệ lụy nghiêm trọng về môi trường. Một trong những vấn đề đáng lo ngại nhất là ô nhiễm nước biển, khi nhiều khu kinh tế ven biển xả thải trực tiếp ra biển mà chưa qua xử lý đạt chuẩn. Điều này không chỉ gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái biển và hoạt động khai thác thủy sản.

Bên cạnh đó, hệ sinh thái ven biển đang bị suy giảm nghiêm trọng do tình trạng khai thác quá mức các rạn san hô, rừng ngập mặn để phục vụ du lịch hoặc mở rộng đô thị. Việc này đã làm mất đi môi trường sống của nhiều loài sinh vật biển, phá vỡ cân bằng sinh thái tự nhiên. Ngoài ra, rác thải từ hoạt động du lịch biển cũng là vấn đề đáng báo động. Những điểm du lịch nổi tiếng, như: Phú Quốc, Nha Trang hay Đà Nẵng đang phải đối mặt với tình trạng rác thải nhựa, túi ni-lông tràn lan trên bờ biển, không chỉ làm mất mỹ quan mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh du lịch của địa phương.

Sự suy thoái môi trường không chỉ gây thiệt hại về kinh tế mà còn đe dọa trực tiếp sinh kế của người dân ven biển, đặc biệt là ngư dân và những cộng đồng sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên biển. Nếu không có các giải pháp kịp thời, tình trạng này sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển bền vững của vùng ven biển.

Thứ ba, khai thác tài nguyên chưa bền vững, ứng dụng công nghệ còn thấpHiện nay, nhiều ngành kinh tế ven biển vẫn chủ yếu dựa vào mô hình khai thác tài nguyên thô mà chưa chú trọng đến chế biến sâu hay ứng dụng công nghệ hiện đại. Trong lĩnh vực thủy sản, hoạt động đánh bắt vẫn chiếm tỷ trọng lớn, trong khi nuôi trồng chưa được quy hoạch theo hướng bền vững, dẫn đến nguy cơ cạn kiệt nguồn lợi thủy sản. 

Bên cạnh đó, công nghiệp ven biển vẫn chưa tận dụng tối đa công nghệ xanh hay nguồn năng lượng tái tạo, khiến mức độ ô nhiễm môi trường tiếp tục duy trì ở mức cao. Việc khai thác tài nguyên thiếu chiến lược dài hạn không chỉ gây tổn thất về mặt kinh tế mà còn để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các vùng ven biển.

3. Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế ven biển 

Một là, hoàn thiện quy hoạch phát triển vùng ven biển một cách tổng thể, đồng bộ và có tính liên kết cao. Phát triển kinh tế ven biển Việt Nam cần hướng đến việc xây dựng một chiến lược phát triển dài hạn và toàn diện cho toàn bộ khu vực ven biển. Quy hoạch cần xác định rõ mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển cho từng vùng, đồng thời phân công vai trò và chức năng cụ thể cho từng tỉnh, thành phố trong chuỗi giá trị chung. Đặc biệt, quy hoạch cần nhấn mạnh tính liên kết giữa các địa phương, các ngành kinh tế và các yếu tố về môi trường, xã hội, quốc phòng – an ninh. Quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch cần có sự tham gia chặt chẽ của các bộ, ngành trung ương, các địa phương ven biển, các chuyên gia và cộng đồng dân cư.

Một quy hoạch tổng thể và liên kết sẽ giúp khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế của từng vùng, tránh tình trạng phát triển chồng chéo, cạnh tranh không cần thiết và lãng phí nguồn lực. Điều này sẽ tạo ra một khung khổ định hướng rõ ràng cho các hoạt động đầu tư, phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường trong khu vực ven biển. Tính liên kết vùng sẽ thúc đẩy sự hợp tác giữa các địa phương, tạo ra các chuỗi giá trị hiệu quả.

Hai là, xây dựng cơ chế phối hợp liên vùng hiệu quả giữa các địa phương ven biển. Liên kết vùng thông qua việc thiết lập một cơ chế hợp tác chặt chẽ và hiệu quả giữa các tỉnh, thành phố ven biển trong việc giải quyết các vấn đề chung và tận dụng các cơ hội phát triển. Cơ chế này có thể bao gồm việc thành lập các hội đồng hoặc ban điều phối vùng, tổ chức các diễn đàn, hội thảo, xây dựng các chương trình hợp tác liên tỉnh trong các lĩnh vực, như: bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên, phát triển du lịch, ứng phó với biến đổi khí hậu và đào tạo nguồn nhân lực. 

Ba là, hoàn thiện khung pháp lý về quản lý và sử dụng tài nguyên biển. Khung pháp lý về quản lý và sử dụng tài nguyên biển đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự phát triển bền vững của kinh tế biển cũng như bảo vệ môi trường biển. Để đạt được điều này, các nhà hoạch định chính sách cần tập trung rà soát, sửa đổi và ban hành mới các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý và sử dụng tài nguyên biển, bảo đảm tính đồng bộ, minh bạch, khả thi và phù hợp với các cam kết quốc tế. Khung pháp lý cần quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên biển, đồng thời có các chế tài đủ mạnh để xử lý các hành vi vi phạm.

Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống giao thông kết nối các vùng ven biển và các trung tâm kinh tế. Hệ thống giao thông đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế biển, kết nối các địa phương ven biển với các trung tâm kinh tế trọng điểm. Do đó, cần tập trung vào việc đầu tư nguồn lực để xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông, đặc biệt là các tuyến đường bộ cao tốc ven biển, các tuyến quốc lộ kết nối các tỉnh ven biển với các vùng kinh tế trọng điểm khác trong cả nước. Đồng thời, cần chú trọng phát triển hệ thống giao thông đường thủy, đường sắt kết nối các cảng biển với các khu công nghiệp và đô thị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và hành khách.

5. Kết luận

Phát triển kinh tế ven biển là hướng đi chiến lược, góp phần nâng cao vị thế và sức cạnh tranh của Việt Nam trong khu vực. Để phát huy tối đa tiềm năng, cần hoàn thiện quy hoạch tổng thể, tăng cường liên kết vùng, ưu tiên đầu tư hạ tầng hiện đại và xây dựng khung pháp lý đồng bộ. Đồng thời, chú trọng bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh, nâng cao năng lực quản lý và ứng dụng khoa học công nghệ, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm sinh kế cho cộng đồng ven biển và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.

Chú thích:

1. Tiềm năng phát triển các ngành kinh tế biển của Việt Nam. https://tapchicongthuong.vn/tiem-nang-phat-trien-cac-nganh-kinh-te-bien-cua-viet-nam-101655.htm

2, 3, 4, 5, 7. Cục Thống kê (2023). Kinh tế – xã hội các địa phương ven biển giai đoạn 2011 – 2022. NXB Thống kêi.

6. Phát trig kê (2024).theo hưo hưig kê (2024). 22. phương ven biển g- 2024. https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/phat-trien-thuy-san-theo-huong-ben-vung-o-viet-nam-giai-doan-2016-2024/

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương (2018). Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

2. Chính phủ (2020). Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20/01/2020 về quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo.

3. Báo cáo kinh tế – xã hội 28 tỉnh ven biển giai đoạn 2011 – 2022. https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/04/Kinh-te-xa-hoi-cac-dia-phuong-ven-bien-2011-2022.pdf

4. Nguyễn Chu Hồi, Nguyễn Văn Cư (2015). Kinh tế biển Việt Nam: Tiềm năng và thách thức. NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.

5. Bùi Tất Thắng (2007). Chiến lược kinh tế biển: cách tiếp cận và những nội dung chính. Viện Khoa Học xã hội Việt Nam.

6. Adam Smith (1776). An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations. London: W. Strahan and T. Cadell.

7. Asian Development Bank (2021). Blue economy and sustainable growth in Vietnam’s coastal regions.

8. Food and Agriculture Organization (2023). Vietnam’s fisheries and marine economy: Growth and sustainability.

9. Organisation for Economic Co-operation and Development (2022). Vietnam’s blue economy: Policy review and recommendations.

10. Rappaport, J., & Sachs, J. D (2003). The United States as a Coastal Nation. Journal of Economic Growth, 8(1), 5 – 46. https://doi.org/10.1023/A:1022861628539

11. United Nations Development Programme (2023). Sustainable development of Vietnam’s coastal economy: Challenges and solutions.

12. World Bank (2022). Vietnam: Coastal development and resilience strategy.