ThS. Nguyễn Thanh Tùng
Sở Tài chính tỉnh Bắc Ninh
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh phát triển kinh tế – xã hội nhanh chóng và nhu cầu tài chính ngày càng lớn tại các địa phương, quản lý ngân sách địa phương đóng vai trò then chốt trong bảo đảm nguồn lực cho các nhiệm vụ phát triển và an sinh. Tuy nhiên, hiệu quả quản lý ngân sách ở nhiều địa phương vẫn còn gặp không ít hạn chế do những bất cập trong cơ chế phân cấp, năng lực tổ chức thực thi, cũng như mức độ minh bạch và trách nhiệm giải trình. Bài viết tập trung phân tích rõ thực trạng phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương và chỉ ra những hạn chế trong quản lý ngân sách địa phương giai đoạn 2021 – 2024. Từ đó đề xuất một số các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý ngân sách nhà nước địa phương trong thời gian tới.
Từ khóa: Quản lý ngân sách địa phương, ngân sách nhà nước, ngân sách trung ương, phân cấp quản lý ngân sách, nâng cao hiệu quả, kinh tế – xã hội.
1. Đặt vấn đề
Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách địa phương đóng vai trò then chốt trong việc bảo đảm các nguồn lực tài chính để thực hiện nhiệm vụ chi của chính quyền các cấp. Quản lý ngân sách nhà nước là một trong những nội dung quan trọng trong quản lý tài chính công và là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế và xã hội. Tại Việt Nam, quản lý tốt ngân sách nhà nước tại địa phương sẽ góp phần quan trọng giúp địa phương thúc đẩy phát triển kinh tế và ổn định, xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn quản lý ngân sách địa phương hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, từ cơ chế phân cấp, nguồn thu chưa ổn định, tới cách thức quản lý chưa theo hướng kết quả và tính minh bạch còn hạn chế. Việc nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách địa phương trở thành yêu cầu tất yếu nhằm đảm bảo tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong phân bổ và sử dụng ngân sách.
2. Tình hình phân cấp quản lý ngân sách địa phương giai đoạn 2021 – 2024
Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 quy định cụ thể về ngân sách nhà nước như sau: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngân sách nhà nước được phân chia thành ngân sách trung ương và ngân sách địa phương”.
Trong đó, việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là xử lý các mối quan hệ giữa các cấp chính quyền nhà nước từ địa phương đến trung ương trong hoạt động của ngân sách nhà nước, hình thành một cơ chế phân chia ranh giới quyền lực về quản lý ngân sách nhà nước giữa các cấp chính quyền từ địa phương đến trung ương: “ngân sách trung ương là các khoản thu ngân sách nhà nước phân cấp cho cấp trung ương hưởng và các khoản chi ngân sách nhà nước thuộc nhiệm vụ chi của cấp trung ương; ngân sách địa phương là các khoản thu ngân sách nhà nước phân cấp cho cấp địa phương hưởng, thu bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương và các khoản chi ngân sách nhà nước thuộc nhiệm vụ chi của cấp địa phương”.
Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 cũng đưa ra nguyên tắc: “ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất, tập trung dân chủ, hiệu quả, tiết kiệm, công khai, minh bạch, công bằng; có phân công, phân cấp quản lý; gắn với quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước các cấp”.
Với các nguyên tắc trên, trong giai đoạn 2021 – 2024, việc quản lý ngân sách nhà nước đã được phân cấp mạnh mẽ cho các địa phương. Theo đó, ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện những nhiệm vụ chi được giao. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn.
Mục tiêu cốt lõi của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là nhằm bảo đảm các nguồn lực tài chính quốc gia được huy động và phân phối sử dụng hiệu quả; bảo đảm tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động khai thác, sử dụng vốn ngân sách nhà nước, sự hài hòa trong quản lý kinh tế – xã hội và quản lý ngân sách của các cấp chính quyền. Nội dung của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước gồm 5 vấn đề chính: phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách; giao nhiệm vụ chi cho các cấp; các khoản bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới; vay nợ của chính quyền địa phương; vấn đề trao quyền tự chủ cho các đơn vị sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Phân cấp quản lý ngân sách theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 đã góp phần tích cực, thúc đẩy nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý ngân sách địa phương, cụ thể như:
Thứ nhất, vai trò của thu ngân sách địa phương ngày càng tăng, thể hiện qua việc thu ngân sách địa phương trong những năm gần đây có xu hướng tăng cả về quy mô và tỷ trọng (thu ngân sách trung ương trong tổng thu ngân sách nhà nước năm 2000 mức 75%, năm 2011 mức 61,8%, đến năm 2020 là 52,2% và đến năm 2024 chỉ còn là 51%), trong khi tỷ trọng thu ngân sách địa phương ngày càng tăng theo quy mô tăng thu hằng năm1.
Năm 2024, quy mô thu ngân sách địa phương tăng ở hầu hết các tỉnh, thành phố và ở các vùng trong cả nước. Có 22 tỉnh đóng góp số thu ngân sách nhà nước vượt mức trên 20.000 tỷ đồng, còn lại đều ở mức trên dưới 10.000 tỷ đồng, cá biệt có tỉnh có số thu chưa đầy 1.000 tỷ đồng. Trong đó, nhóm các vùng có mức thu ngân sách khá cao, đồng đều từ trên 30.000 tỷ đồng trở lên tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ. Các địa phương có mức thu ngân sách khá nằm ở các vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, vùng Đồng bằng sông Cửu Long, với mức thu từ 10.000 – 60.000 tỷ đồng. Các tỉnh nằm ở khu vực Trung du miền núi phía Bắc, Tây Nguyên có mức thu khá thấp, chủ yếu dưới 10.000 tỷ đồng. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có số thu ngân sách lớn nhất, mỗi tỉnh hơn 500.000 tỷ đồng, chiếm tới hơn 50% tổng thu ngân sách của cả nước. Chênh lệch giữa tỉnh có số thu thấp là Bắc Kạn (930 tỷ đồng) với các tỉnh có số thu lớn nhất tới hơn 500 lần2.
Tính chung giai đoạn từ 2021 – 2024, tổng số thu ngân sách vượt dự toán lên tới 1,096 triệu tỷ đồng. Trong đó, năm 2021, thu ngân sách nhà nước vượt 233 nghìn tỷ đồng so với dự toán (tương ứng 17,2%); năm 2022 thu vượt 407 nghìn tỷ đồng dự toán (28,8%). Năm 2023, nhiều khó khăn hơn, thu ngân sách nhà nước cán đích phút chót song vẫn vượt 132 nghìn tỷ đồng (8%). Trước đó, năm 2020, nhiệm vụ thu ngân sách gặp nhiều khó khăn, hụt dự toán 1,9%, tương ứng thấp hơn 28 nghìn tỷ đồng so với mục tiêu đề ra do hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại, đầu tư, du lịch chịu nhiều tác động tiêu cực bởi đại dịch3.
Những địa phương có số thu ngân sách ở mức cao chủ yếu là các thành phố trực thuộc trung ương, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng…; các địa phương khác có các nhà máy sản xuất công nghiệp quy mô lớn, trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch của cả nước, đơn cử, Bà Rịa – Vũng Tàu có số thu ngân sách đứng thứ 4, là nơi tập trung các dự án về năng lượng, dầu khí; Bình Dương, Đồng Nai là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp; Thanh Hóa với điểm nhấn là Khu kinh tế Nghi Sơn và Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn; Quảng Ngãi có Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, gang thép Hòa Phát (Dung Quất). Với một số địa phương có sự đầu tư lớn của các tập đoàn đa quốc gia hoặc tư nhân, như tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên có nhà máy của Samsung, Quảng Nam có tổ hợp sản xuất ô tô của Thaco – Trường Hải, Ninh Bình hay Khánh Hòa là những địa chỉ thu hút khách du lịch…
Thứ hai, việc phân cấp quản lý ngân sách địa phương đã giúp các địa phương chủ động hơn trong việc quyết định các khoản chi cần thiết phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Kể từ khi Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 có hiệu lực thi hành, việc phân cấp quản lý ngân sách đã tuân thủ theo những nguyên tắc cơ bản, ổn định, rõ ràng, bảo đảm được tính minh bạch, công khai, bảo đảm tính chủ động của chính quyền các cấp ở địa phương và quản lý tập trung của Trung ương. Việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước theo Luật định đã tạo ra sự chủ động cần thiết cho các cấp chính quyền từ địa phương đến trung ương. Đặc biệt, làm gia tăng tính linh hoạt, dân chủ, hiệu quả và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc cung cấp các dịch vụ và hàng hoá công cộng.
Theo Kết luận số 93-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới cơ chế phân cấp quản lý, phân bổ NSNN để đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW và chủ động của ngân sách địa phương, các cơ quan, đơn vị có liên quan; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao: “Chính sách tài chính về đất đai phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư, có cơ chế điều tiết hợp lý, hiệu quả nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất giữa Trung ương và địa phương; nghiên cứu có chính sách điều tiết chênh lệch địa tô, bảo đảm công khai, minh bạch”. Việc thực hiện phân cấp quản lý ngân sách nhà nước đã góp phần ổn định tình hình thu – chi và cân đối ngân sách nhà nước. Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước đã tạo tính chủ động, năng động, sáng tạo cho chính quyền địa phương khai thác các tiềm năng và thế mạnh của mình phục vụ sự nghiệp phát triển.
Tổng số chi ngân sách nhà nước đến ngày 31/12/2024 ước đạt khoảng 1.830,8 nghìn tỷ đồng, bằng 86,4% dự toán. Trong đó, chi đầu tư phát triển ước đạt 78,1% dự toán Quốc hội quyết định, tỷ lệ giải ngân đạt 77,5% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (680 nghìn tỷ đồng), thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ năm 2023 (đạt 81,9% kế hoạch). Giải ngân vốn đầu tư công còn chậm, chưa có nhiều chuyển biến, trong đó điểm nghẽn lớn nhất vẫn là thể chế, nhiều thủ tục rườm rà. Cùng với đó, chi thường xuyên ước đạt 94,5% dự toán4; đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi phát sinh theo dự toán và tiến độ thực hiện của đơn vị sử dụng ngân sách, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và thanh toán đầy đủ các khoản nợ đến hạn, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; bảo đảm kinh phí thực hiện cải cách tiền lương từ ngày 01/7/2024 và thực hiện chính sách an sinh xã hội đã ban hành.
Thứ tư, những thay đổi tích cực trong quản lý ngân sách địa phương, nhất là sự gia tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển đã hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế các địa phương. Trong năm 2024, tốc độ phát triển tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn ước cả năm với mức cao nhất trong top 5 là Bắc Giang, Thanh Hóa, Hải Phòng, Hà Nam, Lai Châu; 5 tỉnh có mức tăng trưởng thấp nhất là Đắk Nông, Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Gia Lai và Bà Rịa – Vũng Tàu. Xét về quy mô kinh tế (GRDP), top 5 địa phương có quy mô kinh tế (GRDP) lớn nhất cả nước trong 2024 bao gồm TP. Hồ Chí Minh (1,78 triệu tỷ đồng), Hà Nội (1,43 triệu tỷ đồng), Bình Dương (520.205 tỷ đồng), Đồng Nai (493.819 tỷ đồng) và Hải Phòng (445.995 tỷ đồng)5.
3. Một số hạn chế trong quản lý ngân sách địa phương
Một là, phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi chưa hợp lý
Ngân sách trung ương chưa bảo đảm vai trò chủ đạo, khó thực hiện tốt các nhiệm vụ chi đầu tư phát triển theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Trong các báo cáo về đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025, cơ cấu ngân sách nhà nước, vốn đầu tư nguồn ngân sách trung ương chỉ bằng 44,4%, nguồn ngân sách địa phương đạt 55,6% tổng số thực hiện6. Trong một số năm gần đây, tỷ trọng chi đầu tư nguồn ngân sách trung ương trong tổng chi đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước có xu hướng giảm dần.
Về phân cấp nhiệm vụ chi, theo quy định, phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách phải phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế – xã hội, nhưng hiện nay phân cấp quản lý kinh tế – xã hội đối với một số nhiệm vụ chưa được quy định rõ ràng. Cụ thể, có nhiệm vụ là của cấp dưới nhưng kinh phí thì vẫn để ở cấp trên quản lý; hoặc nhiệm vụ của cấp trên nhưng lại giao cho cấp dưới thực hiện và không chuyển kinh phí cho cấp dưới. Việc phân cấp nguồn thu giữa ngân sách các cấp ở địa phương thực hiện theo quy định tại Điều 39 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, Điều 17 Nghị định số 163/2016/NĐ-CP của Chính phủ cho phép cấp tỉnh được quyết định phân cấp nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách trực thuộc nhưng lại phân cấp cụ thể nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông công lập, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, giao thông đô thị, vệ sinh đô thị và các công trình phúc lợi công cộng cho chính quyền cấp dưới tỉnh nên phần nào hạn chế quyền chủ động của chính quyền cấp dưới.
Bên cạnh đó, việc khống chế các tỷ lệ cứng đối với chi cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ… cũng gây khó khăn cho các địa phương trong bố trí, sử dụng nguồn kinh phí cho hai lĩnh vực này. Phân cấp chi chưa gắn liền với việc cung cấp các dịch vụ công, chủ yếu còn phân bổ dựa trên hệ thống tiêu chí, định mức theo yếu tố đầu vào, điều này gây thất thoát, lãng phí. Việc thực hiện thời kỳ ổn định ngân sách cũng làm hạn chế nguồn lực của địa phương, bởi khi địa phương cố gắng tăng thu thì được tăng chi trong thời kỳ ổn định ngân sách, song qua mỗi thời kỳ ổn định thì tỷ lệ điều tiết về ngân sách Trung ương bắt buộc phải tăng lên. Ngoài ra, một số nhiệm vụ được Trung ương chuyển về cho địa phương nhưng không được Trung ương tính bổ sung dự toán hoặc bổ sung không kịp thời.
Quy trình ngân sách nhà nước phức tạp, qua nhiều khâu, nhiều lần cùng một cấp, làm tốn thời gian và công sức của đơn vị thụ hưởng ngân sách. Luật Tổ chức chính quyền địa phương, quy định: Hội đồng nhân dân quyết định dự toán ngân sách địa phương. Như vậy, có 2 cơ quan (Quốc hội, HĐND) đều quyết định dự toán ngân sách địa phương. Điều này dẫn đến chồng chéo trong quy trình ngân sách.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước về hình thức mang tính tập trung, nhưng trên thực tế quản lý phân tán; mô hình phân cấp của các tỉnh không thống nhất, chưa phản ánh được đặc điểm của từng loại đơn vị hành chính, nhất là các đô thị.
Quyền hạn trong quyết định nguồn thu còn hạn chế do phụ thuộc vào trung ương, trong khi các khoản phí, lệ phí được phân cấp còn quá thấp. Do không gắn chi tiêu với kết quả công việc, không đo lường được hiệu quả chi tiêu, nên vẫn có hiện tượng các địa phương tìm cách chi nhiều hơn, thậm chí bố trí những khoản chưa thực sự cần thiết để được bổ sung ngân sách. Việc xây dựng Đề án vị trí việc làm tại các cơ quan, đơn vị hành chính tạo ra kỳ vọng có hiệu quả thiết thực trong việc sử dụng ngân sách, nhưng nhiều nơi còn hình thức, chưa mang lại hiệu quả thực sự; các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn nhận nhiều lao động hợp đồng, ngân sách hàng năm phải bố trí tăng kinh phí cho trả lương lao động; việc triển khai các dịch vụ đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp công ích còn chậm. Ngân sách của địa phương hạn hẹp, chi cho con người chiếm tỷ trọng cao, điều này dẫn đến việc các cơ quan, đơn vị không còn nguồn lực để tái đầu tư trang thiết bị và tăng thu nhập cho người lao động.
Hai là, quản lý ngân sách chưa gắn với hiệu quả: việc lập và phân bổ ngân sách vẫn chủ yếu theo đầu vào, chưa phản ánh được kết quả đầu ra, dẫn đến tình trạng lãng phí, chi tiêu không hiệu quả. Sự chồng chéo trong quản lý giữa các cấp khiến quá trình lập, giao và quyết toán ngân sách trở nên phức tạp, ảnh hưởng tới tính chủ động và minh bạch. Tình trạng lồng ghép này (giữa ngân sách trung ương với ngân sách địa phương; ngân sách địa phương lại lồng ghép ngân sách các cấp chính quyền) dẫn đến tình trạng trùng lắp, chồng chéo về thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp ngân sách; hạn chế tính độc lập của từng cấp ngân sách; làm cho quy trình ngân sách phức tạp và kéo dài, việc lập dự toán, tổng hợp dự toán cũng như quyết toán ở mỗi cấp bị lệ thuộc vào cấp dưới và việc quyết định dự toán ở cấp dưới mang tính hình thức vì phụ thuộc vào quyết định dự toán của cấp trên.
Ba là, chi đầu tư phát triển còn thấp: tỷ trọng chi đầu tư từ ngân sách địa phương vẫn ở mức khiêm tốn, khó đáp ứng yêu cầu phát triển hạ tầng và các chương trình kinh tế – xã hội trọng điểm.
Nguyên nhân cơ bản tác động nhiều nhất tới những nhược điểm, hạn chế kể trên được xác định gồm:
(1) Địa phương mới chỉ được tăng quyền về tổ chức thực thi và quản lý ngân sách, còn thẩm quyền quyết định vẫn thuộc về Trung ương. Điều này khiến tính chủ động của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương chưa phát huy cao; Hội đồng nhân dân có thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách cấp mình, nhưng chưa được Trung ương trao quyền dứt khoát nên đã đưa ra quy trình quản lý ngân sách nhà nước phức tạp, chồng chéo…
(2) Mất cân đối và thiếu công bằng trong thu chi ngân sách nhà nước trong thời gian qua. Nguyên nhân là do: mức độ tập trung kinh tế quá lớn vào một số trung tâm, khoảng cách chênh lệch phát triển giữa các tỉnh thành, giữa các vùng miền quá lớn. Cùng với đó là cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước giữa Trung ương và địa phương còn bất cập, chưa khuyến khích tính chủ động của các địa phương trong thu chi ngân sách nhà nước.
(3) Chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước chưa được ban hành đầy đủ, kịp thời, chậm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế, số bổ sung cân đối cho các nhiệm vụ chi mới như chi trợ giúp xã hội, bảo hiểm y tế cho người nghèo, trẻ em… ngày một tăng dần, cấp dưới nhận bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên thường có tốc độ tăng thu nhỏ hơn tốc độ tăng chi ngân sách. Mặt khác, Nhà nước chưa có sự phân biệt về tiêu chí phát triển kinh tế – xã hội giữa đô thị và nông thôn để thực hiện phân cấp, phân quyền phù hợp với đặc điểm, tính chất của mỗi địa phương… Việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở các cấp dưới tỉnh còn mang tính cào bằng, chưa khai thác triệt để nguồn thu trên địa bàn, các khoản chi còn dàn trải, chưa tập trung để chi cho các dự án lớn của xã khi cần thiết.
(4) Trình độ chuyên môn của các bộ quản lý tài chính các cấp của địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình mở rộng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước. Phân cấp sâu tới cấp cơ sở đòi hỏi các cán bộ quản lý tài chính các cấp, ngoài việc am hiểu chuyên sâu về tài chính, phải có kiến thức tổng hợp ở những lĩnh vực khác để có thể phối hợp tốt với các bộ phận khác trong địa bàn.
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách địa phương
Thứ nhất, rà soát và hợp lý hóa hoặc đề nghị điều chỉnh để hợp lý hóa các nội dung phân cấp quản lý ngân sách địa phương cho phù hợp với phân cấp quản lý nhà nước. Theo đó, đối tượng rà soát là quy định do các cơ quan quản lý nhà nước các cấp ban hành nhằm kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Điều này cần bao quát các nội dung như: phân cấp trong ra quyết định quản lý ngân sách địa phương; phân cấp trong thực hiện quyền, trách nhiệm đã được quy định; kiểm tra, giám sát công tác quản lý ngân sách địa phương; phân cấp trong quyết toán ngân sách.
Đẩy mạnh phân cấp quản lý gắn quyền hạn với trách nhiệm, thực hiện công khai, minh bạch ngân sách và tăng cường trách nhiệm giải trình. Trong quá trình thực hiện phân cấp cần lấy thực tiễn làm thước đo, đi đôi với tăng cường giám sát của cơ quan có thẩm quyền, đẩy mạnh giám sát của cộng đồng đối với hoạt động thu – chi ngân sách nhà nước.
Nghiên cứu sớm sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, quán triệt phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phải bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương. Đồng thời, rà soát, đề xuất sửa đổi các luật có liên quan để phân định rõ hơn quyền và trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương; cân nhắc trong việc điều tiết khoản thu ngân sách Trung ương về địa phương nhằm bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, vừa bảo đảm cho phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
Hoàn thiện quy định về phân định nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cấp chính quyền. Đồng thời, cần sửa đổi quy định để Quốc hội quyết định tổng mức bội chi ngân sách hằng năm và chính quyền địa phương được quyền vay trong tổng mức bội chi ngân sách hàng năm và cho phép chính quyền địa phương có quyền tự chủ nhất định trong việc quyết định nguồn thu và phân bổ nguồn lực theo ưu tiên của địa phương.
Thứ hai, điều chỉnh phân cấp nguồn thu và tỷ lệ phần trăm phân chia ngân sách các cấp chính quyền địa phương.
Nếu địa phương bảo đảm cung cấp cho dân cư những dịch vụ có chất lượng và lợi ích thì các cơ quan cung cấp dịch vụ có quyền được chi trả cao hơn, tương ứng với lợi ích và chất lượng dịch vụ cung cấp; người thụ hưởng cũng có trách nhiệm chi trả tương ứng với lợi ích được hưởng. Nhà nước không lo ngại các địa phương sẽ quyết định mức phí, lệ phí quá cao, bởi: (1) Các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên hoàn toàn có thể can thiệp khi địa phương quy định mức phí, lệ phí cao một cách bất hợp lý; (2) Có sự theo dõi, giám sát của các cơ quan chuyên môn, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp và cộng đồng; (3) Địa phương phải tạo ra lợi thế cạnh tranh để phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.
Thứ ba, đẩy mạnh việc chuyển đổi phương thức quản lý ngân sách địa phương từ quản lý theo nhiệm vụ và biên chế sang quản lý theo kết quả.
Phương thức quản lý ngân sách theo chức năng, nhiệm vụ và biên chế không thể bị loại bỏ hoàn toàn bởi trong quản lý nhà nước, vẫn có những chức năng, nhiệm vụ cần được thực hiện bất kể kết quả như thế nào. Tuy nhiên, chỉ quản lý theo kết quả thì mới có thể nâng cao hiệu quả của việc tạo lập (bên thu) và sử dụng (bên chi) ngân sách nhà nước nói chung, ngân sách địa phương nói riêng.
Nâng cao trình độ và năng lực cho đội ngũ cán bộ có liên quan tới quản lý ngân sách địa phương. Việc nâng cao trình độ và năng lực cho đội ngũ cán bộ có liên quan tới quản lý ngân sách địa phương được thực hiện nhằm hai mục tiêu chủ yếu: (1) Làm cho đội ngũ cán bộ có đủ năng lực thực hiện hiệu quả nhiệm vụ; (2) Giúp cán bộ nâng cao năng lực và phát triển tư duy để phát hiện những bất cập và chủ động tìm kiếm biện pháp giải quyết.
Hoàn thiện công tác tổ chức quản lý ngân sách địa phương và cơ sở hạ tầng phục vụ quản lý ngân sách địa phương: hoàn thiện hệ thống và công tác quản lý ngân sách địa phương; thiết lập hệ thống thông tin phục vụ quản lý ngân sách địa phương; bổ sung, nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ công tác quản lý ngân sách địa phương. Mục đích là để nâng cao chất lượng và hiệu lực của công tác quản lý nhà nước, nâng cao năng lực của các cơ quan trong bộ máy quản lý nhà nước, bảo đảm theo dõi, giám sát việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn và phân bổ, sử dụng các nguồn lực trên địa bàn một cách có hiệu quả hơn. Để làm điều này cần quan tâm đến các việc như:
Thành lập các tổ công tác hỗn hợp theo chuyên đề, bao gồm các chuyên gia, nhà quản lý để phối hợp giải quyết những nhiệm vụ đề ra. Các tổ công tác này có thể dùng để thay thế cho các ban chỉ đạo mà hiện nay, trong đó mỗi ban gồm đại diện các cơ quan liên quan thuộc tỉnh nhưng hoạt động một cách hình thức.
Tham vấn định kỳ và đột xuất giữa các cơ quan, tổ chức, tương tự như hình thức giao ban. Điều này cho phép xem xét, giải quyết trọn vẹn và toàn diện mọi vấn đề chứ không phải chỉ xem xét một vấn đề cụ thể dưới giác độ một chức năng quản lý, từ chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan chuyên môn.
Chú thích:
1. Đề xuất mới về nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp. https://baochinhphu.vn/de-xuat-moi-ve-nguon-thu-nhiem-vu-chi-cua-ngan-sach-cac-cap-102250401101051695.htm.
2. Trước khi sáp nhập tỉnh thành, thu ngân sách của các địa phương ra sao?. https://tuoitre.vn/truoc-khi-sap-nhap-tinh-thanh-thu-ngan-sach-cua-cac-dia-phuong-ra-sao-20250306195259135.htm.
3, 4. Thu ngân sách: chuỗi 4 năm vượt dự toán. https://vneconomy.vn/techconnect//thu-ngan-sach-chuoi-4-nam-vuot-du-toan.
5. Những địa phương có quy mô kinh tế lớn nhất Việt Nam năm 2024. https://mekongasean.vn/nhung-dia-phuong-co-quy-mo-kinh-te-lon-nhat-viet-nam-nam-2024-37484.
6. Minh bạch ngân sách nhà nước của chính quyền địa phương cấp tỉnh hiện nay. https://lyluanchinhtri.vn/minh-bach-ngan-sach-nha-nuoc-cua-chinh-quyen-dia-phuong-cap-tinh-hien-nay-5522.html.
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2016), Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước.
2. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách nhà nước năm 2015.
3. Đổi mới, nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý ngân sách nhà nước – Thực trạng và giải pháp. https://vietnamhoinhap.vn/vi/doi-moi–nang-cao-hieu-qua-phan-cap-quan-ly-ngan-sach-nha-nuoc-thuc-trang-va-giai-phap-48149.htm.
4. Mai Đình Lâm (2021). Đổi mới cơ cấu và chính sách thu ngân sách nhà nước phục vụ mục tiêu tăng trưởng bền vững giai đoạn 2021 – 2025. Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 19, tháng 7/2021.
5. Nâng cao hiêụ quả phân cấp quản lý điều hành ngân sách địa phương. https://tapchitaichinh.vn/nang-cao-hieu-qua-phan-cap-quan-ly-dieu-hanh-ngan-sach-dia-phuong.html.
6. Minh bạch ngân sách nhà nước của chính quyền địa phương cấp tỉnh hiện nay. https://lyluanchinhtri.vn/minh-bach-ngan-sach-nha-nuoc-cua-chinh-quyen-dia-phuong-cap-tinh-hien-nay-5522.html.
7. Đổi mới phân cấp quản lý ngân sách nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị. https://lyluanchinhtri.vn/minh-bach-ngan-sach-nha-nuoc-cua-chinh-quyen-dia-phuong-cap-tinh-hien-nay-5522.html.
8. Hoàng Dương Việt Anh, TS. Phan Đình Anh (2024). Quản lý ngân sách nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 01, tháng 01/2024.
9. Đề xuất mới về nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp. https://baochinhphu.vn/de-xuat-moi-ve-nguon-thu-nhiem-vu-chi-cua-ngan-sach-cac-cap-102250401101051695.htm.
10. Quy trình Ngân sách Nhà nước của Việt Nam: Những vấn đề tồn tại và kiến nghị. https://kinhtevadubao.vn/quy-trinh-ngan-sach-nha-nuoc-cua-viet-nam-nhung-van-de-ton-tai-va-kien-nghi-31125.html.