Nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội hiện nay 

Đại tá, PGS. TS. Hà Đức Long 
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Ở nước ta, tư tưởng cơ hội đã có từ lâu nhưng nó chỉ biểu hiện rõ nét khi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân và hiện nay thì tồn tại từ mặt trái của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về bản chất chủ nghĩa cơ hội không thay đổi nhưng trong kinh tế thị trường hiện nay, nó gian giảo, khôn ngoan, tinh vi và ngụy trang kín đáo hơn. Vì vậy, việc nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội này có tính cấp thiết hơn lúc nào hết.  

Từ khóa: Đấu tranh; cá nhân; chủ nghĩa cá nhân; cơ hội chính trị.

1. Một số nhận diện về bản chất của chủ nghĩa cơ hội

Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: chủ nghĩa cơ hội là hệ thống quan điểm chính trị không theo một định hướng, một đường lối rõ rệt, không có chính kiến hẳn hoi, ngả nghiêng nhằm mưu lợi trước mắt. Trong phong trào cách mạng vô sản, chủ nghĩa cơ hội là chính trị thỏa hiệp, cải lương, hợp tác vô nguyên tắc, trái với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động.

Trên thực tế, chủ nghĩa cơ hội ra đời cùng với quá trình hình thành và phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Lúc đầu chủ nghĩa cơ hội từ một vài xu hướng, bè phái cơ hội như Frudong, Baculin đã phát triển thành một lực lượng chính trị đáng kể trong các Đảng chủ chốt của quốc tế II, dẫn tới sự phân liệt sâu sắc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đưa đến sự phá sản của quốc tế II. Bản chất của chủ nghĩa cơ hội là một trào lưu tư tưởng chính trị hình thành trong phong trào công nhân, thể hiện sự thích nghi với lợi ích của tầng lớp tiểu tư sản và bộ phận giai cấp công nhân đã bị tư sản hóa.

Theo mô tả của C. Mác, những kẻ cơ hội chủ nghĩa dốt nát về mặt lý luận nhưng lại giàu có về các thủ đoạn. Còn V.I.Lênin thì ví chủ nghĩa cá nhân, cơ hội luồn lách như con rắn nước, nguy hiểm như mọt đục, khói hun. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi những phần tử cơ hội chủ nghĩa là bọn đầu cơ. Bọn đầu cơ thực ra chỉ là bọn cơ hội chủ nghĩa thực dụng, chúng không có lý luận, chúng chỉ tìm cách “thích nghi” và luồn lách xuất phát từ bản chất mưu lợi cá nhân, thói ích kỷ, vụ lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, bọn đầu cơ cũng giống như là bọn phản động, nó “là địch nhân lọt vào trong Đảng để phá hoại”1. Chúng dùng mọi thủ đoạn, như: xu nịnh, đút lót, hối lộ, tâng bốc, bênh che, cánh hẩu, ô dù, phe cánh, gian dối… để chui sâu, leo cao, miễn sao nắm được quyền lực để mưu vinh.

2. Nhận diện những biểu hiện chủ nghĩa cơ hội, thực dụng hiện nay

Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam do những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, phong trào cách mạng cũng có một số thời điểm chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tuy nhiên, chưa có thời kỳ nào xuất hiện chủ nghĩa cơ hội với tư cách một lực lượng, một phong trào có khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của cách mạng. Thực trạng hiện nay ở nước ta sau gần 40 năm đổi mới, chủ nghĩa cơ hội không còn biểu hiện đơn thuần là mâu thuẫn giữa hai luồng tư tưởng mà đã hóa thân thành “muôn hình vạn trạng”, hòa vào xã hội như một “căn bệnh” quái ác, ăn dần ăn mòn lập trường, tư tưởng của người bị tiêm nhiễm nó. Có thể nhận diện ở những biểu hiện sau: 

(1) Người mang tư tưởng chủ nghĩa cơ hội là người luôn có động cơ vụ lợi, có tham vọng rất lớn, cả trong ý nghĩ và hành động. Để đạt được mục đích, họ sẵn sàng tìm mọi cách để luồn lách, len lỏi, chạy chọt, thậm chí dẫm đạp lên cả đạo lý, tình người. Đó là loại người dối trá, gian xảo, thiếu trung thực mang tính bản chất, rất dễ thay lòng đổi dạ, lừa thầy, phản bạn; là những kẻ vô ơn, bạc nghĩa, “ăn cháo, đá bát”, biểu hiện rõ là khi cần người khác giúp đỡ thì họ nịnh bợ, hạ mình cầu xin, thậm chí kiên trì đeo bám buộc người khác phải rủ lòng thương. Nhưng khi đạt mục đích, họ quên ngay mối quan hệ này, sẵn sàng thay vào đó là một mối quan hệ mới mà họ có thể lợi dụng được. 

(2) Người mang tư tưởng chủ nghĩa cơ hội trong quan hệ xã hội và luôn lấy lợi ích cá nhân làm hệ quy chiếu. Mặc dù có nhiều mối quan hệ nhưng không có mối quan hệ nào bền vững, họ không có bạn thân, không có người tâm đầu ý hợp mà chỉ có những quan hệ tạm thời, hình thành khi mục đích đặt ra và mất đi khi mục đích đã đạt được. Họ luôn sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình. Đồng thời, lợi dụng sự sơ hở của cơ chế, chính sách, sự yếu kém trong công tác quản lý để đục khoét của công, biến của công thành của riêng, làm cho Nhà nước thì nghèo đi, còn cá nhân thì giàu lên. Những lúc cách mạng gặp khó khăn hoặc chuyển giai đoạn là lúc kẻ cơ hội lộ rõ nguyên hình. Những người này thường lười học tập, lười tu dưỡng rèn luyện nhưng trí tuệ lại phát triển theo hướng mưu mẹo mánh khóe, luôn nghĩ ra các thủ đoạn gian ngoan, xảo quyệt để lừa gạt tổ chức, lừa gạt người khác, làm lợi cho mình mà hại người. Họ luôn mong muốn có cơ hội nhưng lại không tự tạo ra cơ hội bằng công sức của chính mình mà chỉ muốn giành giật cơ hội ở người khác, cho nên đối thủ của họ là những người thẳng thắn, cương trực, đức độ, tài năng. Khi còn người thẳng thắn, cương trực thì những mánh khóe, mưu mô, tâm địa của kẻ cơ hội dễ bị phơi bày, vạch trần. 

(3) Người mang tư tưởng chủ nghĩa cơ hội là người say quyền lực và dùng quyền lực thực hiện ý đồ cá nhân. Thực tế cho thấy, nếu những người mang trong mình chủ nghĩa cơ hội ở vị trí lãnh đạo, có trong tay quyền lực thì rất nguy hiểm, họ sẵn sàng dùng quyền lực đẩy người trung thực ra khỏi cơ quan, đơn vị hoặc ít nhất cũng tìm cách răn đe, vô hiệu hóa; nếu không ở cương vị lãnh đạo thì họ khai thác những yếu kém về năng lực, sự sơ hở trong công tác quản lý, sự thiếu gương mẫu về phẩm chất đạo đức lối sống của người lãnh đạo để lợi dụng thao túng hoặc cài bẫy. Cũng có khi tạo ra một sự thân mật giả tạo để làm tai mắt cho thủ trưởng bằng những lời đường mật, kích động, tâng bốc người này nói xấu người kia, sai lệch thông tin làm lẫn lộn thật giả, phải trái, đúng sai, để ám hại, hạ bệ những người trung thực. Nhất là thời điểm có đoàn kiểm tra, thanh tra, chuẩn bị thay đổi nhân sự, bố trí sắp xếp đề bạt cán bộ hoặc trước khi bầu cử vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội.

Chủ nghĩa cơ hội tồn tại dưới nhiều cấp độ, ở cấp độ thấp nó có mặt mọi lúc, mọi nơi trong mọi lĩnh vực, nó tồn tại một cách vô hình, vô ảnh, nó có cả ở trong mỗi chúng ta, “chờ dịp – hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi – để ngóc đầu dậy”2. Chủ nghĩa cơ hội như con lươn đổi màu, len lỏi, luồn lách vào các ngõ ngách của cuộc sống, chi phối mọi quan hệ, luôn thay hình đổi dạng, lúc ẩn, lúc hiện. Nhận biết nó đã khó khăn nhưng đấu tranh với nó càng khó khăn hơn nhiều. Những hành vi đen tối của nó đôi khi chưa cấu thành tội phạm để có thể xét xử theo pháp luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, việc tìm kiếm số liệu, chúng cớ để chứng minh những kẻ cơ hội gặp rất nhiều khó khăn. Trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) đã chỉ rõ. Những phần tử cơ hội có nhiều mánh khóe, biểu hiện ra ở rất nhiều dáng vẻ khác nhau, trong đó phổ biến là tệ chạy chức, chạy quyền, “mua quan, bán chức”, biến chức vụ của Nhân dân giao cho mình thành “hàng hóa” để mưu lợi, trục lợi, kinh doanh. 

Trong những biểu hiện tiêu cực hiện nay thì biểu hiện chủ nghĩa cơ hội là vấn đề bức xúc nổi cộm nhất, vì nó chi phối đời sống chính trị tinh thần trong Đảng, trong xã hội; nó là nguyên nhân của những hiện tượng cục bộ, mất đoàn kết nội bộ; ở đâu chủ nghĩa cơ hội thắng thế thì sự thật bị bưng bít, bóp méo, nguyên tắc bị vi phạm, cán cân công lý bị bẻ cong, những nhân tố tích cực bị kìm hãm, người ngay thẳng thật thà bị trù dập; chuẩn mực đạo đức bị biến dạng, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước bị xuyên tạc, lợi dụng, lòng người ly tán, phân tâm. Nếu để chủ nghĩa cơ hội phát triển mạnh, lan rộng sẽ “làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”3. Vì vậy, cuộc đấu tranh “ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng không tách rời cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, thực dụng.

3. Một số nội dung biện pháp cụ thể 

Một là, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên ở từng tổ chức cơ sở Đảng nhận diện đúng sự nguy hại của chủ nghĩa cơ hội và sự cần thiết phải đấu tranh phòng, chống, khắc phục kịp thời chủ nghĩa cơ hội trong mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng.

Theo quy luật của quá trình nhận thức, có nhận thức đúng thì mới có hành động đúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vì sao phải chỉnh huấn? Vì cán bộ ta lập trường chưa vững chắc, tư tưởngchưa thông suốt”4. Trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), khi đề cập đến nguyên do của vấn đề đưa đến sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng, đã khẳng định: “trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện..; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân”5

Trong thực tế cho thấy, có không ít cán bộ, đảng viên do động cơ không trong sáng dẫn đến trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội hiện nay thực hiện không đúng nguyên tắc. Do đó, cần phải xây dựng động cơ trong sáng cho mỗi cán bộ, đảng viên trong quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội. Đúng với phương châm: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né tránh”6. Làm rõ tính nguy hại của chủ nghĩa cơ hội và những biểu hiện xấu xa của nó đối với xã hội, với Đảng và Nhà nước. Tăng cường giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục tình thương yêu con người, giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc, tạo bầu không khí tâm lý lành mạnh, đoàn kết thân ái trong mỗi địa phương, đơn vị. Mỗi đảng viên, cán bộ, công chức nhà nước phải thực hiện cho được lời dạy: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của Hồ Chủ tịch. Tích cực tu dưỡng rèn luyện bản thân, nêu cao tự phê bình, xa lánh chủ nghĩa cơ hội, gột rửa mọi biểu hiện tư tưởng cơ hội. Nêu cao trách nhiệm kiên quyết chống tư tưởng hữu khuynh, né tránh hoặc thỏa hiệp, làm ngơ để mặc cho những kẻ cơ hội tự do hoành hành.

Hai là, kết hợp đẩy mạnh thực hành và chống chủ nghĩa hình thức với nâng cao hiệu quả công tác tự phê bình và phê bình đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong mỗi cán bộ, đảng viên ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị. 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”7; và “Muốn tẩy sạch bệnh ấy, thì phải: Thực hành tự phê bình và phê bình đồng sự mình. Phê bình một cách thiết thực mà thân ái. Phê bình từ cấp trên xuống và từ cấp dưới lên. Phê bình nhau và giúp nhau sửa chữa”8. Đồng thời, “Phải đề cao tính tổ chức, đề cao kỷ luật. Chống chủ nghĩa ba phải; trái phải, phải dứt khoát, phải rõ ràng, không được nể nang. Can đảm bảo vệ chính nghĩa, dũng cảm tự phê bình và phê bình”9. Với ý nghĩa đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức rõ tự phê bình và phê bình là công việc thường xuyên, như cơm ăn, nước uống hằng ngày, là hai mặt của một quá trình thống nhất. Mỗi cán bộ, đảng viên không nghiêm túc và thường xuyên tự phê bình thì cũng không thể thấy, không thể phê bình cho đúng khuyết điểm của người khác. Còn thực hiện phê bình một cách nghiêm túc, không chỉ giúp cho đồng chí mình nhận ra khuyết điểm để sửa chữa, ưu điểm để phát huy, mà còn giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên nhìn nhận và đánh giá lại mình một cách đầy đủ hơn để cùng nhau tiến bộ. Đúng với tinh thần của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra: “Mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên cần tự giác, trung thực, đánh giá mình cho thật khách quan…Thấy rõ ưu điểm để phát huy, nhận ra khuyết điểm để sửa chữa, coi trọng sự giáo dục, sự giúp đỡ chân thành của đồng chí, đồng nghiệp, học tập lẫn nhau, “trị bệnh cứu người”10

Trong vấn đề tự phê bình và phê bình của một bộ phận cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở đảng thực hiện một cách lỏng lẻo, lấy lệ, không nghiêm túc, không phát huy được hiệu quả, hiệu lực của nó trên thực tế có nguyên nhân từ việc nhận thức chưa đầy đủ vai trò tác dụng, ý nghĩa giá trị của công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng. Từ đó dẫn đến tình trạng “dĩ hòa vi quý”, hình thức lấy lệ trong sinh hoạt, sợ bị phê bình, né tránh khuyết điểm thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao; phê bình không kịp thời, không góp ý cho đồngnghiệp, đồng chí sửa chữa khuyết điểm nhỏ để khi khuyết điểm trở nên lớn hơn, phức tạp hơn, gây hậu quả nghiêm trọng, khó khăn cho sự phấn đấu, sửa chữa của đồng nghiệp, đồng chí thì mới góp ý, phê bình. 

Cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng, đó là: “Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức đề cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh”11. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng của cán bộ, đảng viên không có cái “tâm”, cái “tầm”, nhất là một số người là cấp trên lại tự cho mình cái quyền thoải mái phê bình cấp dưới, phê bình mọi lúc, mọi nơi, mọi thời điểm, thậm chí sử dụng lời lẽ cay nghiệt, chì chiết, thiếu văn hóa… Cách phê bình đó không mang lại hiệu quả tác dụng tích cực mà còn trở lên phản tác dụng.

Thấu triệt phương pháp phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là: phê bình phải có cái tâm trong sáng, phê bình việc chứ không phê bình người; phê bình cốt để sửa đổi cách làm việc tốt hơn, đúng hơn, cốt để đoàn kết thống nhất nội bộ, thương yêu lẫn nhau, giúp nhau cùng tiến bộ. Chính vì vậy, để thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình, mỗi tổ chức cơ sở đảng và từng cán bộ, đảng viên cần xây dựng cho mình ý thức, trách nhiệm cao, thái độ, động cơ trong sáng trong quá trình thực hiện phê bình và tự phê bình. Không ngại va chạm, không sợ trù dập hay sợ bị hiểu lầm, “chỉ miễn sao trong lòng chúng ta trong sáng; thật lòng vì nước, vì dân, vì Đảng; thật sự là người cộng sản”12

Ba là, kết hợp chặt chẽ việc nêu gương sáng về đạo đức của các cán bộ, đảng viên có chức, có quyền với phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội. 

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần căn dặn: Trước mặt quần chúng, không phải cứ viết lên trán chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn lãnh đạo, hướng dẫn Nhân dân thì “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”13. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII)của Đảng cũng nêu rõ: “nêu gương bằng hành động thực tế”14. Sự nêu gương sáng ở đây, là nói như thế nào thì thực hiện làm như thế ấy, lời nói và việc làm phải thống nhất với nhau, nêu gương sáng về đạo đức, lối sống cho cấp dưới noi theo. Tránh tình trạng nói một đằng làm một nẻo, chẳng hạn: miệng nói chống tham nhũng nhưng bản thân mình lại là người tiếp tay cho tham nhũng, thậm chí lại là người trực tiếp tham nhũng. Hoặc hô hào cấp dưới phải tự kiểm điểm phê bình nhưng cá nhân mình lại né tránh phê bình… Cần quán triệt tốt phương châm: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư (tập thể và cá nhân), các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng kiểm điểm trước với tinh thần gương mẫu để cấp ủy, cán bộ, đảng viên cấp dưới thực hiện theo”15. Lần đầu tiên vẫn đề nêu gương của các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, cán bộ, đảng viên giữ cương vị chủ chốt được Đảng đề cập một cách rõ ràng, cụ thể và thành văn bản pháp quy. Vấn đề này phản ánh sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nêu gương sáng trong sinh hoạt, học tập, công tác của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, nhất là việc nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên chủ chốt. Cán bộ, đảng viên giữ cương vị càng cao càng phải nghiêm khắc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội.

Cùng với việc nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ các cương vị chủ chốt, cần phải phát huy tính tự giác, nghiêm túc trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội của mỗi cán bộ, đảng viên trong từng cơ quan đơn vị. Thấu triệt quan điểm Đại hội XIII của Đảng về: “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên”16 và “Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng”17. Do đó, đòi hỏi từng cán bộ, đảng viên công khai thừa nhận khuyết điểm trước tập thể nơi mình công tác. Tự mình đấu tranh với chính bản thân mình, vượt qua những ràng buộc, mặc cảm về tâm lý, về lợi ích. Tự mình phân tích, mổ xẻ những ưu điểm, nhược điểm, mặt tích cực và tiêu cực trong chính bản thân mình, đồng thời, phải nhận xét, đánh giá người khác. Vì vậy, nếu không thật sự tự giác, chân thành, công tâm thì dễ rơi vào chủ quan, chỉ thấy ưu điểm của mình, không nhìn ra được khuyết điểm đang tồn tại trong chính ý nghĩ, tư tưởng, lời nói, hành vi, việc làm của mình. Cũng như, không vì lợi ích chung, không hết lòng vì Đảng, vì dân, vì sự tiến bộ của đồng chí, đồng đội, không có dũng khí, không cầu thị tiến bộ thì không dám đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội. Theo đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần giác ngộ rất cao, nâng cao giác ngộ tư tưởng, có tình thương yêu đồng chí, đồng đội thật sự, có dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân thành, tâm sáng, đức nhân, nghĩa lớn.   

Bốn là, giữ nghiêm kỷ luật Đảng và phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội của cán bộ, đảng viên hiện nay.

Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trước hết cần phát động quần chúng tạo dư luận rộng rãi để nhận diện, lên án, vạch mặt chỉ tên kẻ cơ hội, “khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”18. Theo tinh thần trên, vấn đề phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội vừa là yêu cầu, vừa là biện pháp quan trọng trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội đạt kết quả cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên”19. Cán bộ, đảng viên từ Nhân dân mà ra, phục vụ lợi ích của Nhân dân, là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của Nhân dân, do đó,phải chịu sự giám sát, phê bình của Nhân dân. Vì vậy, Đảng cần cụ thể hóa thành các quy định đểNhân dân phê bình cán bộ, đảng viên mà không sợ bị “trù úm” hoặc gây phiền hà. 

4. Kết luận

Công tác đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội là một chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Đảng, đáp ứng đòi hỏi của tình hình thực tiễn cấp bách trong công tác đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội hiện nay. Mặt khác, phải tạo được môi trường văn hóa, cởi mở, chân thành để nhân dân tham gia đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội. Đặc biệt, cần phải nghiêm khắc xử lý những trường hợp cán bộ, đảng viên trù dập những người đấu tranh. Bản thân từng cán bộ, đảng viên phải nhận thức rằng mình được quần chúng nhân dân đóng góp, phê bình là một niềm hạnh phúc, mình đã được uống một liều thuốc tuy “đắng” nhưng chữa được “căn bệnh khuyết điểm” của mình và cơ thể mình ngày càng khỏe mạnh, ngày càng được Nhân dân tin yêu, kính trọng.        

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”20. Vì vậy, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội là một việc khó khăn, lâu dài. Nhưng không phải không thể làm được, nếu có quyết tâm, đoàn kết, đồng tâm, hiệp lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, nhất định chúng ta sẽ ngăn chặn, hạn chế và đẩy lùi mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội trong đời sống xã hội. Vì vậy, ngoài những nội dung biện pháp trên cần thực hiện nghiêm túc có hiệu quả các 4 nhóm nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng, như: cần đề cao vai trò của các tổ chức đảng, nhất là cấp ủy, chi bộ, cán bộ chủ trì trong quản lý giáo dục, rèn luyện đảng viên; duy trì thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; thường xuyên kiểm tra, phát hiện ngăn chặn xử lý kỷ luật những cán bộ Đảng viên thiếu trung thực, có biểu hiện cá nhân, cơ hội; rà soát xây dựng các quy chế trong tuyển chọn cán bộ, nhân viên cơ quan nhà nước, không để tạo kẽ hở, không để lọt kẻ cá nhân, cơ hội; tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế, chính sách, nhất là trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý tài sản công, có cơ chế quản lý ở cấp vĩ mô và vi mô, không để sơ hở cho kẻ cá nhân, cơ hội lợi dụng. Xóa bỏ cơ chế cấp phát xin cho, hạn chế quyền lực của kẻ ban phát cá nhân, cơ hội; công khai hóa các khoản kinh tế, tài chính, ngân sách. Thực hiện nghiêm 19 điều cấm đối với đảng viên và những điều cấm đối với cán bộ, công chức nhà nước, trước hết là đối với cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý; đẩy mạnh thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội.

Chú thích:

1, 8Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 305, 624.

2, 7, 9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 606, 611, 249.

3, 5, 11, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII). Hà Nội, tr. 6, 3, 9, 14.

4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 156.

6, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012). Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI). Hà Nội, tr. 27, 29.

10, 12. Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Tạp chí Cộng sản, số 831 (01/2012), tr. 16, 16.

13. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,  tr. 284.

15. Bộ Chính trị (2012). Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 24/02/2012 về việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

16, 17, 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 184, 184, 183.

19. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 622.