Trung tá, ThS. Phạm Quang Hải
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội có vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong quân đội. Quá trình bồi dưỡng đòi hỏi phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giảng viên trẻ trong việc tự bồi dưỡng, tự rèn luyện nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ trong tình hình mới. Bài viết làm rõ thực trạng và đề xuất giải pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy của giảng viên trẻ các học viện, trường sĩ quan quân đội, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội hiện đại.
Từ khóa: Giảng viên trẻ, ứng dụng công nghệ số, học viện, trường sĩ quan, tích cực, sáng tạo.
1. Đặt vấn đề
Giảng viên trẻ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình chuyển đổi số giáo dục, đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Hiện nay, nhiệm vụ quân sự quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đã có những bước phát triển mới, đòi hỏi trong công tác giáo dục, đào tạo phải “Khai thác có hiệu quả tiến bộ công nghệ số để đổi mới mạnh mẽ phương thức dạy và học, quản lý giáo dục và đào tạo trong các nhà trường quân đội tạo chuyển biến, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới”1. Việc ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là yếu tố quyết định đến chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, sĩ quan đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy của giảng viên trẻ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng trên là giảng viên trẻ chưa phát huy tốt tính tích cực, tự giác, sáng tạo trong tự bồi dưỡng, tự rèn luyện năng lực ứng dụng công nghệ số. Vì vậy, để bảo đảm quá trình bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy của giảng viên trẻ đạt chất lượng, hiệu quả thì phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giảng viên trẻ là giải pháp có ý nghĩa quyết định.
2. Thực trạng phát huy năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Những năm gần đây, trước yêu cầu cấp thiết của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, quá trình chuyển đổi số toàn diện trong các học viện, trường sĩ quan đã có nhiều chuyển biến tích cực. Việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội được chú trọng và ngày càng được tăng cường.
Cấp ủy Đảng, chỉ huy các cấp ở các học viện, trường sĩ quan đã quán triệt, triển khai nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục – đào tạo, phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, như: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 1652-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về chuyển đổi số trong Quân đội đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Nghị quyết số 1657-NQ/TW ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới; Nghị quyết số 3488-NQ/QUTW ngày 29/01/2025 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong quân đội. Qua đó, tạo sự chuyển biến về nhận thức của giảng viên trẻ về vị trí, vai trò, sự cần thiết của ứng dụng công nghệ số trong giáo dục, đào tạo nói chung và trong hoạt động giảng dạy nói riêng.
Đến nay, các học viện, trường sĩ quan đã cụ thể hóa nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của Bộ Quốc phòng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, mô hình đào tạo nhằm định hướng và tạo cơ chế thuận lợi để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giảng viên trẻ tự bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy.
Các học viện, trường sĩ quan đã chủ động phát triển hạ tầng số, bảo đảm trang, thiết bị công nghệ thông tin, hạ tầng mạng, kết nối mạng bảo đảm tính đồng bộ, thông suốt, như: hệ thống máy tính, xây dựng thư viện số, số hóa giáo trình, tài liệu dạy học tạo điều kiện thuận lợi để khai thác dữ liệu, học liệu số nâng cao chất lượng dạy, học, kiểm tra đánh giá như: số hóa bài giảng, tài liệu dạy học, xây dựng bài giảng điện tự, giáo trình điện tử; triển khai hệ thống phần mềm dạy học, phòng học mô phỏng huấn luyện, mô phỏng vũ khí, phòng học chuyên dùng có ứng dụng công nghệ số; hệ thống phần mềm thi trắc nghiệm; hệ thống giáo dục và đào tạo theo tín chỉ; phần mềm ra đề thi; các trang thông tin điện tử; các phần mềm hội thi, hội thao, bài giảng điện tử, học trực tuyến…
Bên cạnh đó các hình thức phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giảng viên trẻ trong bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số cũng được các Học viện, trường sĩ quan đã triển khai đa dạng cử cán bộ, giảng viên như cử cán bộ, giảng viên tham gia các lớp tập huấn do Cục Quân huấn – Nhà trường, Bộ Tư lệnh 86 tổ chức; mời chuyên gia công nghệ thông tin, công nghệ số ở các doanh nghiệp công nghệ số, các học viện, trường đại học ngoài quân đội bồi dưỡng kỹ năng, kinh nghiệm ứng dụng công nghệ số; tổ chức các hội thi, hội thao về giảng dạy, sáng tạo khoa học – công nghệ…; tổ chức các hội thảo khoa học về ứng dụng công nghệ số. Đây là “sân chơi” rất bổ ích, ý nghĩa đã khuyến khích khả năng tư duy sáng tạo, tinh thần ham học hỏi và thu hút được rất nhiều giảng viên trẻ tham gia.
Giảng viên trẻ về cơ bản đã nhận thức rẩt sâu sắc về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công nghệ số trong đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Do đó, đã chủ động nghiên cứu, tiếp cận và sử dụng khá tốt các công cụ công nghệ phục vụ bài giảng, như: AI, Chat GPT, các phần mềm mô phỏng… vào giảng dạy; bước đầu sử dụng các nền tảng học tập trực tuyến, như: Google Meet, Zoom, hệ thống LMS nội bộ. Các giảng viên trẻ tích cực, trách nhiệm tham gia các khóa bồi dưỡng do nhà trường hoặc các đơn vị phối hợp tổ chức, từ đó dần hình thành năng lực cơ bản trong ứng dụng công nghệ vào giảng dạy lý thuyết và thực hành.
Thực tiễn cho thấy, ở một số học viện, như: Học viện Kỹ thuật Quân sự, Học viện Phòng không – Không quân, Trường Sĩ quan Thông tin cho thấy, nhiều giảng viên trẻ đã chủ động triển khai mô hình “lớp học thông minh”, sử dụng bảng tương tác, thiết bị mô phỏng, xây dựng các phần mềm hỗ trợ học viên luyện tập chiến thuật, điều lệnh, hậu cần kỹ thuật thông qua công nghệ số. Tại Học viện Phòng không – Không quân, giảng viên trẻ đã tham gia nghiên cứu, thiết kế tạo ra nhiều sản phẩm công nghệ mô phỏng có chất lượng, như: hệ thống sở chỉ huy diễn tập phòng không – không quân, các thiết bị huấn luyện một số loại tên lửa; thiết bị chỉ huy bắn pháo phòng không; thiết bị chỉ huy bay, buồng lái Su-27, Su-30MK2… Đồng thời, sử dụng phần mềm mô phỏng để thiết kế bài giảng, như: sử dụng các phần mềm Labview (để xây dựng và thiết kế giao diện của các màn hình, tủ thiết bị của khí tài), Matlab (để tính toán, đánh giá tham số và vẽ các đồ thị khảo sát kết quả hoạt động), OpenRocket (để thiết kết 3D về cấu tạo, khảo sát đạn đạo các loại đạn tên lửa thế hệ mới). Hệ thống này đã giúp học viên hứng thú hơn trong học tập, hình thành tư duy kỹ thuật và biết ứng dụng vào thực tiễn.
Tuy nhiên việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội còn gặp nhiều khó khăn và bộc lộ không ít hạn chế.
Một bộ phận giảng viên trẻ vẫn còn thụ động trong việc học hỏi và ứng dụng công nghệ số vào thực hiện nhiệm vụ. Việc tiếp cận với các phần mềm mới, các công cụ kỹ thuật số hiện đại vẫn mang tính đối phó, mang tính phong trào, thiếu chiều sâu và thiếu chiến lược phát triển lâu dài. Một số giảng viên trẻ dù nhận thức được vai trò của công nghệ nhưng vẫn còn tâm lý e ngại, lo lắng, thiếu tự tin khi tiếp cận với các thiết bị hoặc phần mềm mới, nhất là các công cụ yêu cầu kiến thức nền tảng về lập trình, hệ thống mạng, bảo mật thông tin.
Đồng thời, hạn chế về kỹ năng thực hành và vận dụng công nghệ vào giảng dạy cũng đang là một trở ngại lớn đối với việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy. Phần lớn giảng viên trẻ hiện nay mới chỉ dừng ở mức độ sử dụng công nghệ ở mức cơ bản, như: trình chiếu bài giảng, chia sẻ tài liệu điện tử, tổ chức thi trắc nghiệm online; trong khi các kỹ năng phức tạp hơn như xây dựng môi trường học tập tương tác, sử dụng AI, phân tích dữ liệu học tập của người học…, đặc biệt, kỹ năng tích hợp công nghệ vào các phương pháp giảng dạy tích cực, phù hợp với đặc thù môi trường sư phạm quân sự còn rất hạn chế.
Những hạn chế trên xuất phát từ sự phát triển nhanh của công nghệ đang đặt ra thách thức lớn về tốc độ cập nhật tri thức với yêu cầu cao, đòi hỏi giảng viên phải thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi, học tập, điều chỉnh nội dung giảng dạy để theo kịp sự phát triển; cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng công nghệ, phần mềm dạy học, thiết bị mô phỏng, phòng học thông minh còn thiếu và chưa tương thích, đồng bộ. Việc tiếp cận các nguồn tài nguyên số, công nghệ giáo dục hiện đại, tài liệu chuyên môn hóa về công nghệ trong giảng dạy vẫn còn hạn chế do đặc thù quản lý, bảo mật thông tin trong quân đội.
Bên cạnh đó, một bộ phận giảng viên trẻ còn thiếu động lực nội tại trong nghiên cứu, tiếp cận công nghệ mới, thiếu mục tiêu cá nhân rõ ràng trong phát triển năng lực giảng dạy theo hướng ứng dụng công nghệ số. Một số còn phụ thuộc quá nhiều vào sự chỉ đạo của các cấp, thiếu sự tự học, tự nghiên cứu, tự trau dồi kỹ năng mềm và kiến thức liên ngành. Thói quen giảng dạy theo phương pháp truyền thống vẫn phổ biến trong đội ngũ giảng viên trẻ, tạo nên rào cản tâm lý khi áp dụng công nghệ số vào giảng dạy. Đồng thời, công tác tổ chức các hoạt động bồi dưỡng về công nghệ số ở các học viện, trường sĩ quan còn mang tính hình thức, thiếu trọng tâm, chưa cập nhật xu hướng công nghệ hiện đại phù hợp với đặc thù môi trường sự phạm quân sự. Bên cạnh đó, chế độ, chính sách động viên giảng viên trẻ tham gia hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học còn thiếu, chưa tạo động lực, khuyến khích giảng viên trẻ đổi mới sáng tạo trong ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy.
3. Một số giải pháp
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của giảng viên trẻ về vai trò của khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy.
Đây là giải pháp quan trọng nhất, quyết định đến tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giảng viên trẻ trong nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy. Nghị quyết số 3488-NQ/TW chỉ rõ: “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong quân đội là một giải pháp đột phá quan trọng hàng đầu, là mũi nhọn tiên phong góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”2.
Theo đó, các học viện, trường sĩ quan cần tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng làm cho giảng viên trẻ nhận thức đúng đắn, sâu sắc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, nhất là vai trò của công nghệ số đối với sự đổi mới toàn diện về nội dung, phương pháp dạy học theo hướng hiện đại.
Các giảng viên trẻ cần thấy được sự cần thiết phải ứng dụng công nghệ số vào bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy và đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng lý luận.
Trên cơ sở đó, các học viện, trường sĩ quan quân đội cần tổ chức tuyên truyền, học tập sâu rộng, thường xuyên lồng ghép trong các chương trình giáo dục chính trị, trong sinh hoạt chi bộ, tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân. Mỗi giảng viên trẻ cần hiểu rõ ứng dụng công nghệ số không chỉ là yêu cầu kỹ thuật mà còn là nhiệm vụ chính trị gắn với sứ mệnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, chuyển đổi số trong các học viện, trường sĩ, quan góp phần xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh.
Song song với đó, công tác giáo dục tư tưởng cần tập trung khơi dậy khát vọng công hiến, tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, ý thức nghề nghiệp và lòng tự hào về sứ mệnh của người giảng viên quân đội trong thời đại mới. Đây sẽ là nguồn nội lực quan trọng để giảng viên trẻ vượt qua khó khăn, chủ động học hỏi và ứng dụng thành tựu công nghệ vào hoạt động giảng dạy.
Thứ hai, bồi dưỡng về đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp dạy học của giảng viên trẻ trong ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy.
Trước hết, nội dung các chương trình bồi dưỡng cần được cập nhật theo hướng gắn chặt với thực tiễn giảng dạy, phù hợp với từng nhóm đối tượng giảng viên theo lĩnh vực chuyên môn, bảo đảm hài hòa giữa kiến thức cơ bản và kỹ năng ứng dụng chuyên sâu.
Các nội dung cần chú trọng gồm: kiến thức nền tảng về công nghệ số, các kỹ năng sử dụng phần mềm quản lý học tập (LMS), xây dựng học liệu số, thiết kế bài giảng điện tử, vận hành lớp học trực tuyến, bảo mật dữ liệu và thông tin cá nhân, khai thác trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu học tập. Ngoài ra, cần tăng cường các nội dung thực hành ứng dụng công nghệ số để giảng viên trẻ có cơ hội trải nghiệm, rèn luyện kỹ năng và từng bước làm chủ công nghệ.
Về phương thức tổ chức bồi dưỡng cần đa dạng hóa, kết hợp giữa tập huấn tập trung, trực tuyến, học tập qua trải nghiệm thực tế, hội thảo chuyên đề, tọa đàm học thuật. Tổ chức các buổi mô phỏng hoạt động dạy học ứng dụng công nghệ, mời chuyên gia, giảng viên có kinh nghiệm chia sẻ, hướng dẫn sử dụng công cụ mới. Đồng thời, các học viện, trường sĩ quan xây dựng kế hoạch, chương trình đưa giảng viên trẻ tham quan các học viện, trường sĩ quan, trường đại học trong và ngoài quân đội có mô hình ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy hiệu quả, có tính thực tiễn cao. Những hình thức này vừa giúp tăng cường tính tương tác, vừa giúp nâng cao hiệu quả tiếp thu kiến thức và phát triển kỹ năng thực hành.
Thứ ba, huy động sức mạnh tổng hợp các tổ chức, các lực lượng vào phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của giảng viên trẻ.
Để công tác bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số cho giảng viên trẻ đạt hiệu quả thiết thực, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, đơn vị chức năng trong và ngoài nhà trường. Trước hết, cần phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp trong công tác định hướng, lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý “phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”3 của giảng viên trẻ nhằm bảo đảm cho công tác bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy đạt chất lượng, hiệu quả cao nhất. Đồng thời, phát huy tinh thần trách nhiệm của người đầu gương mẫu thực hiện ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy.
Bên cạnh đó, cần tăng cường sự phối hợp giữa các đơn vị trong học viện, trường sĩ quan, như: Phòng Đào tạo, Phòng Khoa học quân sự, Phòng thông tin khoa học quân sự và các khoa chuyên ngành để xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đồng bộ, có trọng tâm, có lộ trình rõ ràng. Đồng thời, các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân cần động viên, khuyến khích giảng viên trẻ tích cực tham gia vào các hội thi “sáng tạo khoa học công nghệ”, “sáng kiến sĩ quan trẻ”, “tuổi trẻ sáng tạo”, hoặc các cuộc thi xây dựng bài giảng e-learning, thiết kế video mô phỏng tình huống huấn luyện quân sự bằng công nghệ 3D, ứng dụng công nghệ mô phỏng xây dựng hệ thống bài giảng…
Ngoài ra, việc thiết lập mối quan hệ hợp tác với các học viện, trường đại học ngoài quân đội, các tập đoàn công nghệ lớn của Việt Nam như: Viettel, FPT… để tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn chuyển giao công nghệ, hỗ trợ phần mềm chuyên dụng là giải pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng đào tạo công nghệ số. Những chương trình này sẽ giúp giảng viên trẻ tiếp cận nhanh với các xu hướng công nghệ mới, từ đó nâng cao năng lực ứng dụng trong bối cảnh giáo dục đại học quân sự đang hướng tới số hóa toàn diện.
Thứ tư, tăng cường xây dựng môi trường sự phạm số khuyến khích sáng tạo và tự bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy của giảng viên trẻ.
Môi trường sự phạm số ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là yếu tố trọng tâm quyết định đến chất lượng và hiệu quả phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giảng viên trẻ ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy: “Thể chế, nhân lực, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi”4. Theo đó, các học viện, trường sĩ quan cần phải đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ thông tin, hạ tầng mạng, kết nối mạng, nền tảng học trực tuyến, phần mềm mô phỏng, phòng học thông minh… bảo đảm kết nối đồng bộ, thông suốt tạo điều kiện cho giảng viên trẻ thực hành, thử nghiệm, giảng dạy thực tế với công nghệ mới. Việc tiếp cận thiết bị hiện đại không chỉ giúp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là động lực để giảng viên trẻ tích cực tự học, tự nghiên cứu, phát triển chuyên môn liên tục.
Các học viện, trường sĩ quan cần đưa tiêu chí ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học trở thành một tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của các đơn vị hằng năm. Đồng thời, thường xuyên kiểm tra, giám sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, biểu dương kịp thời những mô hình hiệu quả, cá nhân tiêu biểu để tạo sự lan tỏa tích cực trong toàn đơn vị. Chủ động xây dựng cơ chế thi đua, khen thưởng, động viên kịp thời những cá nhân có sáng kiến, giải pháp mới, các bài giảng số hiệu quả, góp phần đổi mới công tác giảng dạy. Đồng thời, có chính sách khuyến khích giảng viên trẻ tham gia nghiên cứu khoa học, viết bài báo chuyên đề, thực hiện đề tài ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy chuyên ngành.
5. Kết luận
Giảng viên trẻ các học viện, trường sĩ quan quân đội giữ vai trò nòng cốt trong quá trình đổi mới, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo theo hướng chuyển đổi số. Với ưu thế về tư duy công nghệ, khả năng thích ứng nhanh và tinh thần sáng tạo, họ không chỉ là lực lượng tiên phong ứng dụng công nghệ vào giảng dạy mà còn là cầu nối quan trọng thúc đẩy lan tỏa tri thức số trong toàn đơn vị. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giảng viên trẻ trong tựu bồi dưỡng, rèn luyện ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là chiến lược lâu dài, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sư phạm quân sự, thúc đẩy quá trình xây dựng nhà trường quân đội thông minh, “giảng viên số”.
Chú thích:
1. Bộ Tổng Tham mưu (2022). Kế hoạch số 588/TH-TM ngày 04/3/2022 về chuyển đổi số lĩnh vực giáo dục, đào tạo trong các nhà trường quân đội giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến năm 2030.
2, 3, 4. Quân ủy Trung ương (2025). Nghị quyết số 3488-NQ/QUTW ngày 29/01/2025 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội.
Tài liệu tham khảo:
1. Giải pháp phát huy vai trò của sĩ quan trẻ trong chuyển đổi số ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, Tạp chí Giáo chức Việt Nam. https://tapchigiaochuc.com.vn/giai-phap-phat-huy-vai-tro-cua-si-quan-tre-trong-chuyen-doi-so-o-cac-hoc-vien-truong-si-quan-quan-doi.html
2. Ban Chấp hành Trung ương (2019). Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
3. Bộ Tổng Tham mưu (2022). Kế hoạch số 588/TH-TM ngày 04/3/2022 chuyển đổi số lĩnh vực giáo dục, đào tạo trong các nhà trường quân đội giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến năm 2030.
4. Nguyễn Thanh Hà (2025). Phát huy tính tích cực, chủ động trong tự học tập, tự bồi dưỡng năng lực của cán bộ quản lý giáo dục ở các nhà trường quân đội. Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1 (203).
5. Quân ủy Trung ương (2022). Nghị quyết số 1652-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về chuyển đổi số trong Quân đội đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
6. Quân ủy Trung ương (2024). Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới.