ThS. Lê Thị Thanh Hương
Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – Lào Cai là tỉnh miền núi vùng Tây Bắc của Việt Nam, nổi bật với địa hình đồi núi phức tạp, đa dạng, điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn, đặc biệt ở các xã nghèo thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Bài viết phân tích thực trạng phát triển kinh tế – xã hội và công tác giảm nghèo tại 10 xã nghèo có tỷ lệ hộ nghèo cao của tỉnh Lào Cai, từ đó làm rõ những thành tựu đạt được cũng như chỉ ra một số hạn chế và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững cho tỉnh trong những năm tới.
Từ khóa: Phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo bền vững, xã nghèo, Lào Cai, miền núi, chính sách phát triển.
1. Đặt vấn đề
Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam với nhiều xã nghèo đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn. Thực trạng phát triển kinh tế – xã hội và giảm nghèo ở các xã này luôn là nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh nhằm nâng cao đời sống Nhân dân và thu hẹp khoảng cách phát triển. Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ và các chương trình phát triển kinh tế – xã hội đã tạo tiền đề cho sự chuyển biến tích cực trong giai đoạn qua.
Tuy nhiên, các xã nghèo vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn như điều kiện hạ tầng chưa đồng bộ, trình độ dân trí thấp, thiên tai và biến đổi khí hậu, thiếu nguồn lực để đầu tư phát triển sản xuất bền vững. Vì vậy, nghiên cứu tổng quan thực trạng và đề xuất giải pháp thiết thực là cần thiết để nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo, góp phần phát triển bền vững cho vùng khó khăn.
2. Thực trạng phát triển kinh tế – xã hội và giảm nghèo bền vững tại 10 xã nghèo tỉnh Lào Cai
2.1. Một số kết quả đạt được
Thời gian qua, việc triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lào Cai, đặc biệt, tại 10 xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, đã đạt được nhiều kết quả thiết thực, góp phần cải thiện điều kiện sống, phát triển sinh kế và nâng cao thu nhập cho người dân nghèo. Theo Kế hoạch số 239/KH-UBND ngày 19/5/2022 của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Lào Cai về phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2022 – 2025, các hoạt động đầu tư đã được tổ chức triển khai mạnh mẽ, đúng định hướng và đạt hiệu quả rõ rệt. Tính đến năm 2024, từ nguồn lực của chương trình, tỉnh đã hỗ trợ triển khai hơn 100 dự án phát triển sản xuất, xây dựng mới và cải tạo trên 4.378 căn nhà cho hộ nghèo và hộ cận nghèo, đầu tư 27 công trình hạ tầng thuộc các lĩnh vực giao thông, giáo dục và văn hóa1. Những nỗ lực này đã góp phần rõ nét trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân ở các vùng khó khăn.
Theo Báo cáo số 22/BC-UBND ngày 14/01/2025 của UBND tỉnh Lào Cai, tỷ lệ hộ nghèo trung bình tại 10 xã khó khăn đã giảm từ 42,7% (năm 2021) xuống còn 28,5%. Thành tựu này là minh chứng cho sự chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở, cũng như sự hưởng ứng tích cực của người dân và sự phối hợp hiệu quả giữa các tổ chức liên quan.
Về công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm, các cấp, ngành tại địa phương đã tổ chức 8 lớp đào tạo nghề về xây dựng, trồng cây ăn quả và chăn nuôi lợn cho 280 lao động; tuyển sinh và đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng cho 367 người; tổ chức 11 hội nghị tuyên truyền và phiên giao dịch việc làm, thu hút 461 lượt người tham gia; qua đó, tạo việc làm cho 815 lao động. Tỷ lệ phân luồng học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở vào các hệ đào tạo trung học phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục nghề nghiệp đạt 68,5%, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại địa phương.
Bên cạnh đó, người dân nghèo và cận nghèo đã được tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi nhằm tổ chức sản xuất – kinh doanh và tạo việc làm tại chỗ. Tổng dư nợ cho vay tại 10 xã (năm 2024) đạt gần 348,4 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2023, trong đó tỷ lệ nợ xấu duy trì ở mức dưới 1%, cho thấy hiệu quả quản lý và sử dụng vốn tương đối tích cực. Tính đến hết năm 2024, đã có 30 danh mục dự án hỗ trợ phát triển sản xuất được triển khai tại 10 xã nghèo từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025 với tổng kinh phí gần 26,2 tỷ đồng.
Công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cũng tiếp tục được quan tâm đúng mức. Trong giai đoạn này, tỉnh đã triển khai tổng cộng 235 công trình cơ sở hạ tầng tại 10 xã nghèo với tổng mức đầu tư gần 914 tỷ đồng; tỷ lệ giải ngân tính đến cuối năm 2024 đạt khoảng 74% so với kế hoạch. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội tại các xã đã có những bước cải thiện rõ rệt. Cụ thể, hơn 75% các tuyến đường giao thông nông thôn trong khu vực đã được cứng hóa, góp phần thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa và đi lại của người dân. Lưới điện quốc gia hiện đã bao phủ toàn bộ 10 xã, bảo đảm cung cấp điện ổn định cho hoạt động sinh hoạt và sản xuất2. Ngoài ra, các công trình thủy lợi, cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường cũng được đầu tư đồng bộ, góp phần cải thiện sức khỏe cộng đồng và chất lượng đời sống.
Trong lĩnh vực sản xuất nông – lâm nghiệp, nhiều địa phương đã tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên và nhu cầu thị trường. Các mô hình sản xuất chuyên canh và hàng hóa được phát triển mạnh, trong đó nổi bật là các vùng trồng chè, cây ăn quả ôn đới, dược liệu và chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng quy mô lớn, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Một số sản phẩm đặc sản đã xây dựng được thương hiệu và hình thành liên kết tiêu thụ thông qua hợp tác xã và doanh nghiệp, qua đó góp phần nâng cao giá trị gia tăng và thu nhập cho người dân.
Hoạt động đào tạo nghề, tư vấn hướng nghiệp và giải quyết việc làm tiếp tục được triển khai có hiệu quả. Năm 2024, gần 1.200 lao động tại các xã nghèo đã được đào tạo nghề, trong đó hơn 85% người học có việc làm ổn định sau đào tạo3. Công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng được chú trọng thực hiện.
Có thể khẳng định, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững tại tỉnh Lào Cai đã được triển khai nghiêm túc, hiệu quả và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, các ngành chức năng và người dân. Các chính sách hỗ trợ về tín dụng, giống cây trồng – vật nuôi, kỹ thuật sản xuất và an sinh xã hội đã góp phần ổn định cuộc sống, tạo nền tảng để người nghèo chủ động vươn lên, từng bước thoát nghèo và hướng đến phát triển bền vững.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đã đạt nhiều kết quả tích cực, vẫn chỉ ra những tồn tại, hạn chế lớn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội và công cuộc giảm nghèo bền vững tại các xã nghèo. Những hạn chế này bắt nguồn từ các nguyên nhân mang tính cấu trúc, hệ thống và bối cảnh đặc thù vùng núi cao.
Thứ nhất, hệ thống hạ tầng kinh tế – xã hội còn thiếu đồng bộ và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; nhiều tuyến đường liên xã, liên thôn tại các huyện, như Mường Khương, Si Ma Cai và Bắc Hà chưa được bê tông cứng hóa hoàn toàn, dẫn đến việc vận chuyển nông sản gặp nhiều khó khăn, nhất là vào mùa mưa. Hệ thống thủy lợi nhỏ, phân tán, không đáp ứng đủ nhu cầu tưới tiêu cho các vùng sản xuất tập trung.
Thứ hai, sản xuất nông nghiệp còn manh mún, thiếu liên kết chuỗi giá trị và chưa thích ứng với thị trường. Phần lớn nông hộ tại các xã nghèo vẫn duy trì phương thức canh tác nhỏ lẻ, tự cung tự cấp. Chỉ khoảng 10% hộ có liên kết với hợp tác xã hoặc doanh nghiệp. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2021) cũng đã chỉ ra việc thiếu liên kết chuỗi làm giảm giá trị gia tăng và hạn chế cơ hội thoát nghèo một cách bền vững cho nông dân. Đồng thời, tỷ lệ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ trong sản xuất còn rất thấp, do trình độ dân trí và kỹ năng lao động hạn chế – một thực trạng đã được MARD (2022) và Sarker & Miah (2020) phân tích như là một “vòng luẩn quẩn nghèo đói – năng lực thấp – thiếu đổi mới”.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp tại các huyện nghèo của Lào Cai chỉ đạt khoảng 11,7%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình toàn quốc (26,1%)4. Hiện nay, một số xã vùng cao, cán bộ cơ sở còn lúng túng trong xây dựng kế hoạch, quản lý ngân sách và triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn và tiến độ thực hiện các dự án phát triển sinh kế, cải thiện đời sống dân cư.
Thứ tư, chính sách giảm nghèo chưa thực sự sát với thực tế địa phương và thiếu tính linh hoạt. Nhiều chính sách còn mang tính áp dụng chung, chưa phân hóa theo đặc thù vùng, dân tộc hoặc điều kiện tự nhiên của từng xã. Theo ADB (2023), các mô hình chính sách giảm nghèo ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, nếu không đi kèm với phân tích địa bàn cụ thể và thiết kế linh hoạt sẽ dễ dẫn đến hiệu ứng “một chính sách cho mọi nơi”, gây lãng phí nguồn lực và làm giảm tác động thực tiễn. Thực tế tại tỉnh Lào Cai, một số chương trình hỗ trợ sinh kế, nhà ở hay tín dụng ưu đãi còn chậm triển khai, hoặc chưa phù hợp với khả năng tiếp nhận của người dân vùng cao. Những hạn chế và nguyên nhân trên không chỉ phản ánh những “điểm nghẽn” nội tại của các xã nghèo trên địa bàn tỉnh mà còn là thách thức chung trong phát triển vùng núi Việt Nam hiện nay. Việc nhận diện đầy đủ các nguyên nhân sẽ là cơ sở quan trọng để thiết kế các giải pháp chính sách hiệu quả, hướng tới mục tiêu giảm nghèo thực chất và phát triển bền vững, như Chiến lược phát triển vùng miền núi Việt Nam đến năm 2030 đã định hướng.
3. Giải pháp và kiến nghị
Trên cơ sở kết quả đạt được, cùng với việc thực hiện Nghị quyết số 15/2024/NQ-HĐND ngày 22/8/2024 của Hội đồng nhân dân về chính sách hỗ trợ nhà ở đối với các đối tượng là người có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ, hộ nghèo và cận nghèo trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2024 – 2025, UBND tỉnh Lào Cai đã có sự chỉ đạo triển khai phát triển kinh tế – xã hội tháng 3/2025 và cả quý I/2025 cũng như nêu rõ các nhiệm vụ trọng tâm trong các tháng tiếp theo (Báo cáo số 153/BC-UBND ngày 03/4/2025), từ đó đã có những đề xuất giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, tỉnh cần ưu tiên nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, hiện đại. Cụ thể là tập trung hoàn thiện hệ thống giao thông nông thôn, nâng cấp các tuyến đường nội vùng, bảo đảm kết nối liên hoàn, thuận lợi cho sản xuất và đi lại của người dân. Đầu tư nâng cấp hệ thống thủy lợi, cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh và hệ thống điện ổn định tại tất cả các xã, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa và biên giới. Đẩy mạnh xây dựng trường học, trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, nâng cao chất lượng giáo dục và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Hai là, phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản theo hướng hàng hóa, bền vững và có giá trị gia tăng cao. Khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên và thị trường. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao, sản xuất hữu cơ và phát triển các sản phẩm đặc sản vùng miền. Tăng cường liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp để xây dựng chuỗi giá trị và thương hiệu sản phẩm đặc trưng của địa phương. Phát triển mô hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng để khai thác tiềm năng đa dạng văn hóa và cảnh quan thiên nhiên.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại địa phương bằng cách mở rộng các chương trình đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật và tư vấn khởi nghiệp cho người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường năng lực quản lý, điều hành cho cán bộ xã, huyện để triển khai hiệu quả các chương trình, chính sách phát triển kinh tế – xã hội. Khuyến khích phát triển các mô hình tổ chức xã hội và cộng đồng nhằm nâng cao sự chủ động và tham gia của người dân trong phát triển kinh tế – xã hội.
Bốn là, hoàn thiện chính sách giảm nghèo bền vững với cách tiếp cận đa chiều, linh hoạt, phù hợp đặc thù địa phương. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội tham gia đầu tư phát triển kinh tế, an sinh xã hội. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả thực hiện các chính sách để kịp thời điều chỉnh, bổ sung phù hợp. Huy động sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành, địa phương và tổ chức xã hội trong công tác giảm nghèo.
Năm là, chú trọng bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo vệ rừng, đất đai, tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế xanh. Khuyến khích phát triển các mô hình sản xuất thân thiện môi trường, tái sử dụng và tiết kiệm tài nguyên. Bên cạnh đó cần đầu tư nâng cấp hệ thống thủy lợi, cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh và hệ thống điện ổn định tại tất cả các xã, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa và biên giới. Đẩy mạnh xây dựng trường học, trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, nâng cao chất lượng giáo dục và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
4. Kết luận
Phát triển kinh tế – xã hội và giảm nghèo bền vững tại các xã nghèo của tỉnh Lào Cai là một nhiệm vụ chiến lược, có vai trò then chốt trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và thúc đẩy sự phát triển bền vững vùng miền núi. Việc đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực sản xuất, phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện chính sách giảm nghèo và tăng cường bảo vệ môi trường được xác định là những giải pháp cốt lõi. Bên cạnh đó, sự phối hợp hiệu quả giữa các cấp, các ngành và sự tham gia chủ động của cộng đồng dân cư sẽ là nhân tố quyết định đến tính hiệu quả và tính bền vững của quá trình phát triển các tỉnh vùng miền núi nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng, nhằm hướng tới mục tiêu đưa tỉnh Lào Cai phát triển nhanh, toàn diện và bền vững trong những năm tới.
Chú thích:
1, 2, 3. Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai (2025). Báo cáo số 22/BC-UBND ngày 14/01/2025 về kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo bền vững năm 2024 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2025 tại các xã nghèo tỉnh Lào Cai.
4. Tổng cục Thống kê (2024). Báo cáo tình hình phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 và dự báo 2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam (2023). Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội vùng miền núi Việt Nam đến năm 2030. H. NXB Chính trị quốc gia.
2. MARD (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) (2022). Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025.
3. Ngân hàng Thế giới (WB) (2021). Giảm nghèo bền vững ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. H. NXB Chính trị quốc gia.
4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các quốc gia trên thế giới. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/07/29/kinh-nghiem-quan-ly-nha-nuoc-ve-giam-ngheo-ben-vung-tai-cac-quoc-gia-tren-the-gioi/
5. Asian Development Bank. (2023). Sustainable development in mountainous regions of Southeast Asia: Policies and practices. Manila: ADB Publishing.
6. P. C. Sarker, & A. K. Miah. (2020). Sustainable poverty alleviation and rural development in mountainous areas: Evidence from Vietnam. Sustainability, 12(14), 5678. https://doi.org/10.3390/su12145678