TS. Lê Ngọc Hồng – TS. Đoàn Thị Hòa
Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – Nguyên tắc tập trung dân chủ gắn với truyền thống đoàn kết, đấu tranh bảo vệ quê hương đất nước của dân tộc Việt. Trong thời đại Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ được đúc rút, nâng tầm thành tư tưởng lý luận mới, được thực hiện triệt để và xuyên suốt trong hoạt động của tổ chức Đảng và chính quyền gắn với tinh thần đoàn kết dân tộc. Nguyên tắc này là một trong các nguyên nhân cơ bản góp phần vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Từ khóa: Quyền con người, nhân quyền, nguyên tắc tập trung dân chủ.
1. Quan điểm về nhân quyền
Nhân quyền (hay quyền con người) là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hiệp quốc, nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân chủ là các chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do cơ bản, mà các chính phủ bảo vệ các quyền tự do đó – các quyền mà mọi cá nhân “hiển nhiên có” trong sự tồn tại của mình. Các xã hội dân chủ đồng thời thừa nhận các quyền dân sự, như: quyền được xét xử công bằng, quyền lập hội, quyền tự do ngôn luận, quyền tụ tập, quyền biểu tình và còn lập nên các quyền quan trọng khác mà bất kỳ chính phủ dân chủ nào cũng phải duy trì.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch không ngừng vu cáo, xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, ra sức tuyên truyền, cổ súy cho dân chủ tư sản phương Tây. Họ dùng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta, dùng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để thúc đẩy, hình thành hội, nhóm, tổ chức chính trị đối lập với Nhà nước. Việc phát triển nền tảng tư tưởng dân chủ và thực hành luận thuyết về tự do, dân chủ cũng diễn ra trong lòng xã hội phương Tây, là thành tựu của văn minh nhân loại.
Các nhà tư tưởng Mác xít và sau này là Lênin đã xây dựng được hệ thống luận thuyết về áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ phục vụ cho xây dựng chính quyền phục vụ Nhân dân, vì Nhân dân. Tuy nhiên, nhiều nước phương Tây luôn tỏ ra đề cao nhân quyền, coi đó là nền tảng phát triển xã hội phồn vinh, thịnh vượng. Từ đó, nhiều nhà lãnh đạo các nước tư bản xây dựng tư tưởng dân quyền, xây dựng xã hội dân túy và phản bác lại nguyên tắc tập trung dân chủ, một Đảng lãnh đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa, cho đó là đi ngược lại sự phát triển, kìm hãm tự do dân chủ. Thực chất, xã hội tư bản dựa trên nền tảng sở hữu tư nhân, nhiều nhà tư tưởng ở phương Tây coi nhân quyền, quyền lợi của cá nhân công dân cao hơn lợi ích cộng đồng; việc xây dựng luật pháp phải tôn trọng tối đa quyền sở hữu cá nhân. Nhưng trong xã hội tư bản, khái niệm công dân ở đây không bao hàm hết các tầng lớp mà có sự phân biệt thứ hạng. Cá nhân công dân phải là những người có tài sản, có khả năng đóng thuế, làm giàu, họ được hưởng đặc quyền đứng trên lợi ích cộng đồng, cá nhân không bao gồm những người yếu thế trong xã hội, người nhập cư.
Nhân quyền như một cái cớ để các quốc gia theo chủ nghĩa tư bản áp đặt luật chơi, bảo hộ cho tập đoàn tư bản, doanh nghiệp nước họ, gây sức ép với các nước nhỏ. Dựa trên luận thuyết đó, nhiều người do nhận thức chính trị chưa vững vàng, trong số đó có cả những trí thức, họ đánh tráo khái niệm, cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ mà Đảng đang dày công xây dựng và tuân thủ là bóp méo dân chủ, mang tính hình thức và thể hiện sự độc quyền lãnh đạo. Trong khi quyền con người trong xã hội Việt Nam hướng tới bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, tôn trọng, không phân biệt giàu nghèo, địa vị xã hội.
Hiến pháp năm 2013 có 11 chương, 120 điều, trong đó chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là chương có điều luật nhiều nhất, gồm 36 điều (từ Điều 14 – 49). Đây là chương quan trọng vì nói đến lập hiến là nói đến mối quan hệ giữa công dân và các cơ quan nhà nước. Quyền con người được quy định trong Chương II Hiến pháp năm 2013, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V Hiến pháp năm 1992 (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân). So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 bổ sung nhiều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngoài ra, quyền con người không chỉ đề cập ở Chương II mà ở nhiều chương khác, như: về Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân. Như vậy, bộ máy nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền con người, theo đó, cách tiếp cận quyền con người luôn thể hiện sự kế thừa và tiếp thu quan điểm tiến bộ của các nước trên thế giới.
2. Nguyên tắc tập trung dân chủ – cơ sở thực hiện quyền con người
Nguyên tắc tập trung, dân chủ thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng của người đứng đầu, nhà lãnh đạo quản lý đối với tập thể, và rộng hơn là với người dân, đồng thời thể hiện sự tin tưởng, phục tùng của đội ngũ dưới quyền với đội ngũ, cá nhân người lãnh đạo. Truyền thống vứa phát huy trung dân chủ vừa bảo đảm thống nhất ý chí quản lý, đã tạo nên sức mạnh không gì cản nổi của quân và dân quyết đánh tan quân xâm lược, đem lại chiến thắng vẻ vang ghi vào lịch sử, hun đúc thêm tinh thần đấu tranh, triết lý đoàn kết của toàn dân tộc. Truyền thống này mang tính liên tưởng mạnh mẽ đến nguyên tắc trên sau này.
Thời đại Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung, dân chủ được kế thừa từ tinh hoa trí tuệ nhân loại, được Hồ Chủ tịch từ thời hoạt động cách mạng, tìm con đường cứu nước cho dân tộc đã đúc kết thành lý luận tiên quyết, cơ bản, kim chỉ nam cho hoạt động của tổ chức nòng cốt của cách mạng là Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là phương châm tổ chức, hoạt động để thống nhất ý chí của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống hành chính, chính trị.
Nói về nguyên tắc tập trung dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Toàn thể đảng viên, toàn thể các cấp, tổ chức thống nhất lại theo một nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc ấy tức là dân chủ tập trung”1. Người coi đây là nguyên tắc lãnh đạo, nguyên tắc tổ chức cao nhất, là chế độ lãnh đạo của Đảng, trong đó: tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung. “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Làm việc mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung”2.
Giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách có mối quan hệ chặt chẽ, không đối lập mà bổ khuyết cho nhau. Trong công tác tổ chức và hoạt động của Đảng, khi thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi đảng viên phải tuân theo kỷ luật của Đảng, cá nhân phải phục tùng tổ chức, bộ phận phải phục tùng toàn thể, số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương, tất cả đảng viên phải phục tùng vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Trí tuệ của Đảng phải là trí tuệ tập thể, khi bàn bạc, thảo luận thành nghị quyết phải có một người hoặc nhóm người phụ trách thì công việc mới chạy. Tinh thần dân chủ, tôn trọng người dân, đoàn kết, đồng lòng nhất trí trong xây dựng và bảo vệ đất nước có nguồn gốc, truyền thống lâu đời từ xa xưa.
Nguyên tắc tập trung dân chủ đã được Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống hành chính, chính trị tuân thủ, vận dụng sáng tạo và thực tiễn và tiếp tục trau dồi, phát triển lý luận cách mạng qua từng giai đoạn. Nguyên tắc này đem lại tính thống nhất, sự gắn kết, vững bền, phát huy bản lĩnh sáng tạo, phát huy trí tuệ tập thể, tạo nên sức mạnh to lớn đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi, đưa dân tộc Việt Nam từ một dân tộc nhỏ yếu trở thành lá cờ đầu trong đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước ngày càng cường thịnh.
3. Yêu cầu thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm quyền con người
Việc bỏ phiếu tín nhiệm các cấp quản lý từ cơ sở đến các cơ quan đứng đầu Quốc gia như Quốc hội, Chính phủ cho thấy, chủ trương đánh giá công chức, viên chức, đại biểu ngày càng phát huy hiệu quả, nhiều công chức, viên chức, đại biểu tạo được sự tín nhiệm, đồng thuận cao, đồng thời nhiều lãnh đạo giữ chức vụ cao nhưng không giữ được phẩm chất, vi phạm các điều đảng viên, công chức không được làm, qua đấu tranh quyết liệt không có vùng cấm nhờ áp dung tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, những sai phạm đã bị phanh phui, những cá nhân suy thoái đã bị kỷ luật, xử lý.
Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được chú trọng thực chất, những đề án, dự án đầu tư công có lấy ý kiến của tập thể, của người dân nhưng thực ra chỉ mang tính hình thức, cả nể hoặc do sự chỉ đạo từ trên xuống, có hiện tượng lãnh đạo chuyên quyền, độc đoán, dùng quyền lực, gây sức ép trong tập thể hoặc cấu kết với nhau trục lợi cá nhân. Khi đó người lao động, người dân cảm thấy chán nản, mất lòng tin vào chính quyền, nhiều cá nhân có thái độ buông xuôi, để mặc các đối tượng thoái hóa biến chất lũng đoạn pháp luật. Trong môi trường đó, công chức, viên chức, người dân không phát huy trí tuệ, nhiệt huyết, không tăng cường phát huy sáng tạo, đóng góp cho tổ chức, cho đất nước, không tham gia đấu tranh với cái xấu, các hiện tượng tiêu cực, để mặc cái xấu hoành hành.
Những đại án tham nhũng thời gian qua, như: vụ Kit test Việt Á, vụ chuyến bay giải cứu công dân đợt Covid -19 hoặc tham nhũng, đưa hối lộ trong lĩnh vực đầu cơ bất động sản Vạn Thịnh Phát, thao túng Ngân hàng SCB gần đây làm thiệt hại cho Nhà nước và xã hội hàng trăm ngàn tỷ đồng là minh chứng cho hệ lụy của việc xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, thiếu quyết liệt cách mạng trong đấu tranh làm trong sách tổ chức thời kỳ xây dựng kinh tế đất nước.
Trong thời đại công nghệ 4.0, đối mặt với làn sóng livestream, gia tăng các giao dịch điện tử, cơ quan nhà nước cũng tham gia sử dụng các tài khoản trên các nền tảng mạng xã hội phục vụ cho hoạt động công vụ, truyền truyền, phổ biến thông tin tới người dân cũng như lấy ý kiến nhân dân, tăng cường hiệu quả phát huy dân chủ và tăng hiệu suất phục vụ người dân trong cung ứng dịch vụ công. Sẽ còn rất nhiều việc phải làm trong việc rà soát, tránh việc lợi dụng mạng xã hội tuyên truyền, chống phá thành quả đạt được của dân tộc.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vai trò của việc bảo đảm nguyên tắc tổ chức, về nguy cơ suy thoái tư tưởng, đạo đức lối sống của bộ phận đảng viên, cán bộ, công chức, làm ảnh hưởng đến sức đấu tranh của tổ chức Đảng, Trung ương Đảng đã ban hành các văn bản chỉ đạo, xây dựng đề án để xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng vững mạnh trong thời kỳ mới, như: Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 02/02/2008 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X), Kết luận số 38-KL/TW ngày 13/11/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) và xây dựng dự thảo Nghị quyết về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình mới. Những văn kiện này là kim chỉ nam cho hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và chính quyền trong việc tiếp tục giữ vững nguyên tắc tổ chức hoạt động, tăng cường đấu tranh chống các biểu hiện sai trái, lệch lạc về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức.
Thứ nhất, tuyền truyền, giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho đội ngũ đảng viên, công chức về ý nghĩa và nội dung thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, giúp nhận thức được các nguy cơ, hậu họa của việc xa rời nguyên tắc.
Thứ hai, phát huy dân chủ, thực hiện tốt vai trò giám sát của các tổ chức xã hội, của người dân, đẩy mạnh công khai, minh bạch các hoạt động của chính quyền.
Thứ ba, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi có sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp các ngành từ trung ương đến địa phương; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân lợi dụng hoặc cố ý không thực hiện đúng nguyên tắc này.
Thứ tư, cần chú trọng đổi mới phương thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ cũng như phương thức kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc trong điều kiện phát triển công nghệ, xây dựng chính phủ điện tử hiện nay.
Thứ năm, cần có các quy định, chế tài cụ thể hơn nữa trong việc áp dụng công nghệ, phát huy hiệu quả đồng thời tăng cường kiểm soát quản lý tài khoản mạng xã hội trong quá trình bàn bạc, thảo luận, ra quyết định, điều hành, thực hiện quyết định của tổ chức.
4. Kết luận
Dù đi qua những giai đoạn thăng trầm trong công cuộc đấu tranh chống đói nghèo, tham nhũng, chống can thiệp, diễn biến hòa bình, trong quá trình vận động, kiện toàn, phát triển của Đảng và công cuộc cải cách hành chính nhà nước, giá trị của nguyên tắc tập trung dân chủ như một triết lý tối thượng không thể đảo ngược trong sự vận hành của tổ chức Đảng và chính quyền, trong các cơ quan hành chính nhà nước. Trong môi trường quốc tế nhiều thay đổi, khủng hoảng, bất ổn như hiện nay, đây là xu thế tất yếu, bảo đảm sự tồn vong của Đảng, của Nhà nước, của tư tưởng xây dựng xã hội của dân, do dân, vì dân.
Hiện nay, trước những hận thù cáo buộc, phủ nhận thành quả cách mạng của các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc tinh thần tập trung dân chủ, rêu rao đòi tự do đa đảng, bảo vệ nhân quyền, trước những lệch lạc về tư tưởng, nhân thức của một bộ phận cán bộ, công chức muốn phá bỏ nguyên tắc này, đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước quyết tâm đồng lòng tin tưởng đường lối, nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc hoạt động của tổ chức. Nhờ sự đoàn kết, nhất trí, vững vàng và triệt để cách mạng, Đảng và Nhân dân tiếp tục vượt qua các thách thức, khó khăn trong thời kỳ đổi mới, góp phần vào những thành tựu to lớn trong xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội, đưa đất nước phát triển theo hướng phồn vinh, thịnh vượng.
Chú thích:
1, 2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 286, 286.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2008). Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 02/02/2008 về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
2. Bộ Chính trị (2018). Kết luận số 38-KL/TW ngày 13/11/2018 về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.