Thượng úy Vũ Hoàng Sơn
Hệ 5, Học viện Chính trị – Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển bền vững hiện nay không chỉ là xu hướng mà đã trở thành định hướng chiến lược trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế hiện đại, trong đó có du lịch biển – một ngành kinh tế tổng hợp có liên quan mật thiết đến tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái, giá trị văn hóa và đời sống cộng đồng ven biển. Trước thực trạng biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, ô nhiễm môi trường biển gia tăng cùng với áp lực khai thác du lịch theo chiều rộng, việc phát triển du lịch biển theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bài viết đánh giá khái quát thực trạng và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch biển trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh theo hướng bền vững.
Từ khóa: Du lịch biển; định hướng chiến lược; phát triển bền vững; tỉnh Quảng Ninh
1. Đặt vấn đề
Những năm gần đây, du lịch biển đã và đang trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và nâng cao đời sống người dân tại nhiều địa phương ven biển của Việt Nam. Nằm ở vùng Đông Bắc Tổ quốc, tỉnh Quảng Ninh sở hữu lợi thế nổi bật với hơn 250 km đường bờ biển, hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và các danh thắng nổi tiếng, như: Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, đảo Cô Tô, Quan Lạn… tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch biển, đảo và nghỉ dưỡng cao cấp. Do vậy, phát triển du lịch biển bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là yêu cầu khách quan, vừa để khai thác hiệu quả lợi thế, vừa gìn giữ tài nguyên cho các thế hệ tương lai. Đây cũng là nền tảng để bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và bảo đảm an sinh xã hội.
2. Thực trạng du lịch biển ở tỉnh Quảng Ninh
a. Những kết quả đạt được
Một là, du lịch biển trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành ở tỉnh Quảng Ninh.
(1) Du lịch biển đã khẳng định vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh góp phần thúc đẩy tăng trưởng GRDP, giải quyết việc làm và mở rộng không gian phát triển kinh tế biển. Theo báo cáo của Sở Du lịch Quảng Ninh, trong năm 2024, tỉnh đã đón khoảng 19 triệu lượt khách du lịch, trong đó có hơn 3,5 triệu lượt khách quốc tế, tăng gấp 1,7 lần so với năm 2023.1 Tổng doanh thu từ du lịch đạt khoảng 46.550 tỷ đồng, tăng 39,3% so với năm 20232. Đây là minh chứng rõ nét cho vai trò của du lịch biển trong việc tăng thu ngân sách địa phương, mở rộng nguồn thu từ dịch vụ, logistics, thương mại ven biển.
(2) Phát triển du lịch biển góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành. Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của du lịch biển cùng các dịch vụ phụ trợ đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh theo hướng hiện đại, bền vững. Cụ thể, theo số liệu từ Cục Thống kê tỉnh Quảng Ninh, năm 2023, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 4,7%; khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 51,9%; khu vực dịch vụ chiếm 30,7% trong cơ cấu GRDP của tỉnh3. Đến năm 2024, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm còn 4,5%; khu vực công nghiệp, xây dựng giảm còn 50,8%; trong khi khu vực dịch vụ tăng lên 33,4%4. Những con số này cho thấy, vai trò nổi bật của ngành Dịch vụ, đặc biệt là du lịch biển, trong việc mở rộng không gian kinh tế biển, thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ cao cấp, đồng thời góp phần giảm dần sự phụ thuộc vào các ngành công nghiệp nặng và nông nghiệp.
Hai là, hạ tầng du lịch biển được đầu tư đồng bộ, tạo nền tảng cho tăng trưởng dài hạn.
Tỉnh đã chú trọng phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng phục vụ du lịch biển, coi đây là yếu tố nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Tính đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 218 cơ sở lưu trú ven biển đáp ứng tiêu chuẩn5; 140 khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 1-5 sao, trong đó có 20 khách sạn 5 sao, 25 khách sạn 4 sao 23 khách sạn 3 sao6; bên cạnh đó, có 99 tàu thủy lưu trú du lịch với 02 tàu 3 sao, 54 tàu 2 sao, 24 tàu 1 sao; 18 tàu đạt tiêu chuẩn7.
Các dự án hạ tầng lớn, như: tuyến cao tốc Vân Đồn – Móng Cái (hoàn thành năm 2022), các bến du thuyền cao cấp, khu nghỉ dưỡng ven biển, như: FLC Hạ Long, Vinpearl Hạ Long, Premier Village Hạ Long Bay… đã góp phần hoàn thiện hệ sinh thái du lịch biển, nâng cao khả năng tiếp cận và thu hút du khách. Nhờ đầu tư đồng bộ vào hạ tầng, du lịch biển Quảng Ninh không chỉ đáp ứng được nhu cầu dịch vụ cao cấp, mà còn tạo động lực lan tỏa, thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế liên quan như logistics, vận tải biển, thương mại dịch vụ ven biển, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng giảm dần phụ thuộc vào khai thác than và công nghiệp nặng, tiến tới phát triển bền vững.
Ba là, sản phẩm du lịch biển được đa dạng hóa, hướng tới giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Tỉnh Quảng Ninh đã quan tâm đầu tư đa dạng hóa các sản phẩm du lịch biển. Đến năm 2024, toàn tỉnh có khoảng 62 sản phảm du lịch8. Không chỉ dừng lại ở tham quan, nghỉ dưỡng, du lịch biển Quảng Ninh đang phát triển các sản phẩm mang tính trải nghiệm và sinh thái biển: lặn ngắm san hô, chèo thuyền kayak, câu mực đêm, khám phá đảo hoang, du lịch làng chài, tour văn hóa biển đảo… Những sản phẩm này vừa gia tăng giá trị khai thác tài nguyên biển, vừa phù hợp với xu thế du lịch xanh và thân thiện với môi trường, một tiêu chí cốt lõi của phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các sự kiện văn hóa biển, như: Festival Hạ Long, lễ hội ẩm thực Cô Tô, đua thuyền truyền thống Quan Lạn… đã trở thành công cụ quảng bá thương hiệu du lịch biển hiệu quả, tạo động lực phát triển các ngành phụ trợ như thủ công mỹ nghệ, ẩm thực, vận tải du lịch và truyền thông địa phương.
Bốn là, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực du lịch biển được thúc đẩy mạnh mẽ.
Thị trường khách quốc tế đến Quảng Ninh ngày càng mở rộng, đặc biệt là các quốc gia có trình độ tiêu dùng cao, như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Đức, Ấn Độ, Australia… Năm 2024, số lượng khách quốc tế đến Quảng Ninh đạt 3,8 triệu lượt, tăng 76,7% so cùng kỳ9. Khách quốc tế không chỉ đóng góp lớn vào tổng thu du lịch mà còn là lực kéo cho cải cách chất lượng dịch vụ, chuẩn hóa mô hình phục vụ theo chuẩn quốc tế góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển theo hướng dịch vụ, thương mại cao cấp. Sự xuất hiện thường xuyên của các tour du lịch tàu biển dài ngày cho thấy Quảng Ninh đang trở thành một “điểm đến trung tâm” trong bản đồ du lịch biển Đông Á.
b. Những tồn tại, hạn chế
Mặc dù du lịch biển đã góp phần tăng trưởng GRDP và đóng góp lớn vào ngân sách tỉnh vần còn tồn tại những hạn chế:
(1) Chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của tỉnh, chưa tạo được sự chuyển biến lớn trong cơ cấu kinh tế. Tổng doanh thu du lịch năm 2024 đạt khoảng 46.550 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng quan trọng trong GRDP, tuy nhiên so với quy mô nền kinh tế tỉnh (GRDP năm 2024 đạt trên 250.000 tỷ đồng), tỷ trọng ngành du lịch, dịch vụ vẫn ở mức khiêm tốn, khoảng 33,4%, cho thấy du lịch biển vẫn chưa tạo ra đột phá mạnh mẽ để trở thành trụ cột chính10. Bên cạnh đó, tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn chậm; khu vực công nghiệp, xây dựng vẫn chiếm hơn 50,8%, cho thấy sự phụ thuộc lớn vào các ngành khai khoáng, công nghiệp nặng vẫn tồn tại11.
(2) Sự phát triển hạ tầng du lịch biển chủ yếu tập trung ở các điểm nổi bật đã hình thành, trong khi nhiều khu vực có tiềm năng nhưng thiếu lợi thế so sánh, như: Ngọc Vừng, Trà Cổ, Vĩnh Thực… vẫn chưa được đầu tư thỏa đáng. Điều này dẫn đến sự mất cân đối trong phân bổ nguồn lực, tăng áp lực lên các trung tâm du lịch biển hiện hữu, đồng thời bỏ lỡ cơ hội phát triển đồng đều trên toàn tuyến ven biển, hạn chế khả năng mở rộng không gian kinh tế biển theo hướng bền vững. Theo thống kê cho thấy, có 34,8% tổng số khách du lịch chọn Vịnh Hạ Long trong đó chỉ có 9,6% chọn Hạ Long Park; 3,8% chọn bãi biển Trà Cổ12.
(3) Việc đa dạng hóa sản phẩm du lịch biển chưa gắn chặt với thể chế quản lý kinh tế biển bền vững. Theo thống kê, có 36,2% khách du lịch Quảng Ninh cho rằng sản phẩm du lịch chưa phong phú13. Công tác điều phối giữa các cấp chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng còn rời rạc, thiếu cơ chế giám sát độc lập và các công cụ kinh tế môi trường hiệu quả. Tình trạng lấn chiếm đất biển, xây dựng trái phép tại các đảo và vùng đệm ven biển vẫn diễn ra, phản ánh hạn chế trong quản lý nhà nước và đặt ra thách thức cho việc cân đối giữa phát triển du lịch và bảo tồn hệ sinh thái biển.
(4) Hội nhập quốc tế và phát triển du lịch biển ở Quảng Ninh tuy có bước tiến nhưng chưa tạo được sự lan tỏa vào cộng đồng địa phương và các ngành Kinh tế biển liên quan. Việc gắn kết du lịch biển với công nghiệp văn hóa, sản phẩm OCOP, logistics biển và giáo dục biển còn rời rạc, thiếu sự phối hợp đồng bộ trong chính sách phát triển vùng. Điều này khiến du lịch biển Quảng Ninh dễ bị tổn thương trước biến động quốc tế, dịch bệnh, thiên tai và chưa thực sự hình thành được chuỗi giá trị liên kết bền vững.
3. Giải pháp phát triển du lịch biển trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh theo hướng bền vững
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch biển gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế biển quốc gia, Quy hoạch tổng thể quốc gia và Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030. Quy hoạch phải bảo đảm tính tích hợp liên ngành, liên vùng với tầm nhìn dài hạn và chiến lược, lấy phát triển bền vững làm trọng tâm. Trong đó, cần xác định rõ các vùng phát triển ưu tiên, như: Vịnh Hạ Long – Tuần Châu, huyện đảo Cô Tô, Vân Đồn, Móng Cái… để tập trung nguồn lực đầu tư công – tư, tránh tình trạng phát triển dàn trải, manh mún, gây lãng phí nguồn lực và xung đột không gian sử dụng.
Thứ hai, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản phẩm và ngành nghề trong phát triển du lịch biển theo hướng gia tăng giá trị nội tại và kết nối chuỗi giá trị kinh tế biển. Phát triển các sản phẩm du lịch có hàm lượng tri thức, công nghệ và văn hóa cao, như: du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng biển, du lịch chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, du lịch học đường về biển nhằm kết hợp khai thác kinh tế với giáo dục và bảo tồn biển. Các loại hình du lịch này không chỉ nâng cao giá trị gia tăng mà còn góp phần thay đổi cấu trúc thu nhập vùng ven biển từ ngư nghiệp đơn thuần sang dịch vụ hiện đại, thân thiện môi trường. Đồng thời, khuyến khích liên kết du lịch biển với các ngành khác như thủ công mỹ nghệ, công nghiệp văn hóa, logistics biển nhằm phát triển đa ngành và giảm rủi ro phụ thuộc vào mô hình du lịch truyền thống.
Thứ ba, tăng cường công cụ chính sách kinh tế môi trường trong bảo vệ tài nguyên biển – yếu tố nền tảng cho phát triển du lịch biển bền vững. Tỉnh cần áp dụng cơ chế định giá dịch vụ hệ sinh thái biển, thiết lập quỹ bảo vệ môi trường biển từ nguồn thu du lịch, triển khai các mô hình thuế môi trường du lịch, phí vào đảo, hoặc ưu đãi cho doanh nghiệp đạt chuẩn xanh. Đồng thời, hoàn thiện hệ thống pháp luật và giám sát môi trường biển, xử lý nghiêm các hành vi xả thải trái phép, lấn biển không phép, và vi phạm quy hoạch vùng bờ. Việc bảo vệ môi trường biển cần được thực hiện không chỉ bởi chính quyền mà cần có sự tham gia chủ động của doanh nghiệp và cộng đồng – những chủ thể hưởng lợi từ phát triển du lịch.
Thứ tư, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại nguồn nhân lực phục vụ du lịch biển theo hướng chính quy, chuyên nghiệp, gắn với phát triển kinh tế tri thức biển. Cần xây dựng hệ sinh thái đào tạo -sử dụng nhân lực du lịch biển, gồm: đào tạo nghề cho lao động ven biển, nâng cao trình độ quản trị du lịch biển, kỹ năng ngoại ngữ, ứng xử văn hóa, và kiến thức về môi trường biển. Đồng thời, cần có chính sách ưu tiên đào tạo lực lượng nhân lực bản địa, tạo điều kiện để người dân địa phương tham gia sâu vào chuỗi giá trị du lịch, từ đó gắn kết giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội – một trụ cột quan trọng của phát triển bền vững.
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế phân phối lợi ích trong phát triển du lịch biển. Tỉnh cần xây dựng các mô hình quản trị đồng thuận trong du lịch biển, thúc đẩy hợp tác công – tư, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Cơ chế phân phối lợi ích nên gắn với chỉ số đóng góp xã hội – môi trường của doanh nghiệp (ESG); đồng thời, có chính sách hỗ trợ các cộng đồng địa phương, đặc biệt là ngư dân chuyển đổi ngành nghề, tham gia dịch vụ du lịch biển, như: homestay, hướng dẫn viên cộng đồng, vận tải ven biển… Việc phân bổ lại lợi ích công bằng không chỉ tạo động lực nội sinh mà còn giảm mâu thuẫn xã hội, tăng tính ổn định của mô hình phát triển.
Thứ sáu, tăng cường năng lực điều phối thể chế phát triển du lịch biển. Thiết lập cơ quan điều phối liên ngành về du lịch biển có chức năng xây dựng chính sách tích hợp, theo dõi đánh giá và điều phối nguồn lực liên vùng, liên ngành. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý du lịch biển (GIS vùng bờ, cơ sở dữ liệu du lịch biển, du lịch thông minh), từ đó nâng cao hiệu quả điều hành, minh bạch hóa thông tin và thu hút đầu tư. Việc phát triển du lịch biển trong thời đại số không thể thiếu tư duy thể chế thích ứng, năng lực chính sách linh hoạt và quản trị số hóa.
Thứ bảy, coi trọng và phát huy vai trò của cộng đồng địa phương – chủ thể trung tâm trong phát triển du lịch biển bền vững. Chính quyền các cấp cần triển khai các chương trình giáo dục công dân biển, nâng cao nhận thức về vai trò chủ thể của người dân trong bảo vệ môi trường, gìn giữ văn hóa biển và phát triển du lịch có trách nhiệm. Tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia hoạch định chính sách, giám sát thực hiện và cùng hưởng lợi từ phát triển. Đó chính là sự kết hợp giữa kinh tế với chính trị, giữa Nhà nước và Nhân dân – nguyên lý căn bản của phát triển kinh tế chính trị hiện đại.
4. Kết luận
Trước yêu cầu phát triển du lịch theo hướng bền vững, Quảng Ninh cần tiếp tục đổi mới cách tiếp cận và nâng cao năng lực quản lý, điều phối các nguồn lực liên quan, đảm bảo sự hài hòa giữa mục tiêu kinh tế với các yêu cầu về bảo vệ môi trường và phát triển cộng đồng. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch biển tại Quảng Ninh, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp là hết sức cần thiết. Những giải pháp trên cần được thực hiện đồng bộ, đặt trong một khuôn khổ thể chế phát triển kinh tế biển hiện đại, có sự phối hợp đa cấp, đa ngành và lấy phát triển con người làm trung tâm. Đó là con đường để Quảng Ninh xây dựng mô hình du lịch biển không chỉ bền vững về môi trường mà còn công bằng về kinh tế, ổn định về chính trị và văn minh về xã hội.
Chú thích:
1. Quảng Ninh hoàn thành chỉ tiêu đón 19 triệu lượt khách năm 2024. https://www.quangninh.gov.vn/chuyen-de/nam-du-lich-quoc-gia/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid=148000
2, 9, 10, 12, 13. Tác giả sử dụng số liệu từ: Báo cáo kết quả điều tra khách du lịch tại Quảng Ninh năm 2024 do Cục Thống kê tỉnh Quảng Ninh cung cấp.
3, 11. Họp báo công bố số liệu thống kê kinh tế – xã hội tỉnh năm 2023. https://baoquangninh.vn/hop-bao-cong-bo-so-lieu-thong-ke-kinh-te-xa-hoi-tinh-nam-2023-3277178.html
4. Họp báo công bố số liệu thống kê kinh tế – xã hội tỉnh năm 2024. https://baoquangninh.vn/hop-bao-cong-bo-so-lieu-thong-ke-kinh-te-xa-hoi-tinh-nam-2024-3338261.html
5. Danh sách cơ sở lưu trú đáp ứng điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh Quý IV năm 2024. https://halongcity.gov.vn/danh-sach-co-so-luu-tru-dap-ung-dieu-kien-toi-thieu-ve-co-so-vat-chat-ky-thuat-va-dich-vu-tren-dia-ban-tinh-quang-ninh-quy-iv-nam-2024-danh-sach-tau-thuy-luu-tr…-p29d14701.html
6. Danh sách khách sạn và căn hộ cao cấp từ 1 đến 5 sao trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh Quý IV năm 2024. https://halongcity.gov.vn/danh-sach-co-so-luu-tru-dap-ung-dieu-kien-toi-thieu-ve-co-so-vat-chat-ky-thuat-va-dich-vu-tren-dia-ban-tinh-quang-ninh-quy-iv-nam-2024-danh-sach-tau-thuy-luu-tr…-p29d14701.html
7. Danh sách tàu thủy lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh Quý IV năm 2024. https://halongcity.gov.vn/danh-sach-co-so-luu-tru-dap-ung-dieu-kien-toi-thieu-ve-co-so-vat-chat-ky-thuat-va-dich-vu-tren-dia-ban-tinh-quang-ninh-quy-iv-nam-2024-danh-sach-tau-thuy-luu-tr…-p29d14701.html
8. 62 sản phẩm du lịch sẽ giúp Quảng Ninh đón 17 triệu lượt khách năm 2024. https://vneconomy.vn/techconnect/62-san-pham-du-lich-se-giup-quang-ninh-don-17-trieu-luot-khach-nam-2024.htm
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2018). Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Quốc hội (2020). Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
3. Phát triển kinh tế ven biển Việt Nam – thực trạng và giải pháp. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/06/10/phat-trien-kinh-te-ven-bien-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.
4. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế biển ở tỉnh Quảng Ninh. https://chinhtrivaphattrien.vn/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-a9022.html.