ThS. Lê Sỹ Tùng
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Giáo dục chính trị, tư tưởng là giải pháp then chốt để xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ vừa “hồng” vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Giáo dục chính trị, tư tưởng để trang bị lập trường chính trị vững vàng, tư tưởng cách mạng và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ – nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước, bảo đảm cho họ hoạt động hiệu quả trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: Chính trị, tư tưởng, khoa học công nghệ, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, cách mạng công nghiệp 4.0.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, vai trò của đội ngũ cán bộ trí thức nói chung, cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ nói riêng, ngày càng trở nên quan trọng. Trong các nhiệm kỳ đại hội đảng, từ Đại hội X đến Đại hội XIII, Đảng ta đã rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ trí thức phục vụ cho phát triển đất nước. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06/8/2008 (Hội nghị Trung ương 7, khóa X) “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã xác định nhiệm vụ và các giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội XIII của Đảng (2021) đã xác định nhiệm vụ: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học,…”1.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, ngày 24/11/2023, Hội nghị Trung ương 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW “Về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”. Nghị quyết đã đánh giá: sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về đội ngũ trí thức, nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và xã hội về vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức ngày càng đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn. Việc thể chế hoá Nghị quyết được quan tâm; cơ chế, chính sách, nhất là chính sách thu hút, trọng dụng, tôn vinh, đãi ngộ nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tiếp tục được hoàn thiện. Đội ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng đi đầu trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ, hội nhập quốc tế; được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, đầu tư nguồn lực, cơ sở vật chất, tạo môi trường làm việc thuận lợi… Đội ngũ trí thức Việt Nam đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng, đóng góp tích cực vào việc hoạch định chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan trọng đưa đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới; đồng thời, tiếp tục có những đóng góp quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng đất nước phát triển nhanh và bền vững.
2. Thực trạng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ của Việt Nam
Trong đội ngũ trí thức của đất nước, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ có vai trò xung kích, tiên phong trong thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Thực hiện Nghị quyết 27 của Trung ương Đảng Khóa X, trong những năm qua, đã có rất nhiều cán bộ khoa học trẻ được đào tạo ở các nước phát triển trở về phục vụ cho nền khoa học, công nghệ của nước nhà, tạo sự thay đổi rất lớn cả về lượng và chất của đội ngũ này. Điều đó chứng tỏ, đội ngũ trí thức nước ta đã có sự lớn mạnh về số lượng; tham gia, đóng góp vào việc thực hiện các quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn dân tộc. Đúng như Bộ Chính trị khóa XII đã nhận định trong Nghị quyết số 57-NQ/TW: “Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đạt được nhiều kết quả quan trọng”2.
Bên cạnh những ưu điểm, những vướng mắc hiện nay trong xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ chủ yếu nằm trong hệ thống tổ chức thực hiện, bao gồm cả chế độ, chính sách. Đa số cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ ở nước ta còn thu nhập thấp, do không có phụ cấp ngoài lương cơ bản. Các nhà khoa học ở các viện nghiên cứu công lập, các viện hàn lâm, các viện nghiên cứu khoa học của các bộ, ngành hiện nay chỉ có lương cơ bản, không có bất kỳ một chế độ phụ cấp nào… Đầu tư ngân sách nhà nước cho khoa học, công nghệ đang thiên nhiều về mục tiêu sản phẩm mới, mà chưa tập trung vào đầu tư để phát triển nguồn lực, vào nhân tố con người…, nên chưa giúp tạo nên đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ ngày càng lớn mạnh. Các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ công lập không còn là điểm đến đủ sức hấp dẫn đối với những người giỏi, trong khi các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp tư nhân,… có sức hút lớn hơn vì họ có chế độ đãi ngộ tốt hơn, trả lương cao hơn cho người làm khoa học của công ty. Đây chính là vấn đề được Đảng ta nhấn mạnh: “…tốc độ và sự bứt phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển…”3.
Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24/11/2023, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đã đề ra các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, trong đó có đọi ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. Điều quan trong nhất chính là sự đổi mới mạnh mẽ tư duy, nâng cao sự thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ trong bối cảnh phát triển mới của đất nước hiện nay.
Để đạt được mục tiêu trước mắt và mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2030 và phấn đấu đến 2045 Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại, Nghị quyết đã nêu 12 định hướng phát triển đất nước cho giai đoạn 2021 – 2030; trong đó, có chủ trương và giải pháp rất dứt khoát, cụ thể về phát triển khoa học, công nghệ; về thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ. Đó là những thuận lợi cơ bản trong xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ hiện nay.
Xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ vửa hồng, vừa chuyên, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là quan điểm cơ bản, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong các nhiệm vụ cần thực hiện, thì giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ này là giải pháp cơ bản, lâu dài, cần được quan tâm thường xuyên và thực hiện có hiệu quả thiết thực.
Giáo dục chính trị, tư tưởng là quá trình tác động vào nhận thức của đối tượng giáo dục những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông qua một hệ thống các biện pháp, nhằm từng bước xây dựng thế giới quan và phương pháp luận khoa học đúng đắn, nâng cao bản lĩnh chính trị cho người học, góp phần vào thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc. Đối với đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ, giáo dục chính trị, tư tưởng giúp cho đội ngũ này thấm nhuần quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ quốc tế…; đồng thời, giúp khắc phục những hạn chế, những nhận thức sai lầm, lệch lạc trong đội ngũ này.
Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ của nước ta hiện nay là những cán bộ được đào tạo cơ bản, có trình độ học vấn cao, hiểu biết sâu rộng, giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển khoa học, công nghệ của quốc gia, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Quan tâm đến sự phát triển khoa học, công nghệ cần thiết phải quan tâm đến đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ. Sự quan tâm đến xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ này không chỉ bao gồm bảo đảm các chế độ, chính sách, điều kiện làm việc mà rất cần quan tâm đến nhận thức của họ về các vấn đề chính trị, tư tưởng, xây dựng niềm tin chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội… Những yêu cầu đặt ra đó chỉ có thể thực hiện qua sự quan tâm đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho họ.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ nước ta trong những năm qua đã có nhiều khởi sắc, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ đã chú trọng đến tất cả các khâu, lĩnh vực cấu thành của hoạt động này, gồm: chủ thể, nội dụng, hình thức, phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng và đem lại những kết quả quan trọng, trong công tác tư tưởng và trong hoạt động chuyên môn của các viện nghiên cứu, học viện, nhà trường…
Bên cạnh những thuận lợi chung, cơ bản, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ hiện nay cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, phức tạp, có nhiều hạn chế trong các khâu tổ chức, bảo đảm nội dung và phương thức tiến hành. Những hạn chế này khiến cho kết quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ nói chung chưa cao, chưa có những đóng góp tích cực cho việc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, khoa học của các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ.
3. Một số kiến nghị giải pháp nâng cao giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Một là, quán triệt, nâng cao nhận thức của các chủ thể giáo dục chính trị, tư tưởng trong các học viện nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Thực tế cho thấy, nhận thức về tầm quan trọng của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ của các chủ thể giáo dục còn nhiều bất cập so với yêu cầu cấp thiết của công tác này. Nhận thức của một số cấp ủy đảng về nhiệm vụ này chưa thật sự đầy đủ, nên chưa thực sự quan tâm thường xuyên đến giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ. Phương thức lãnh đạo chậm đổi mới. Sự kết hợp các lực lượng liên quan có lúc, có nơi còn thiếu đồng bộ, nên chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị trong các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ tham gia vào hoạt động này…
Nói chung, trình độ chuyên môn, năng lực giáo dục chính trị, tư tưởng của các chủ thể còn nhiều hạn chế. Học vấn, vốn sống, kinh nghiệm về lĩnh vực chính trị, tư tưởng (so với người học) của chủ thể giáo dục chính trị, tư tưởng còn có những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được nhu cầu của người học là các cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ đã được đào tạo cơ bản trong các nhà trường đại học. Các bài giảng trên lớp về giáo dục chính trị, tư tưởng còn thiên nhiều về lý thuyết, lý luận, ít gắn với thực tế, do vậy nhiều vấn đề người học không thể vận dụng vào cuộc sống dù được phổ biến, học tập nhiều lần.
Việc chưa phát huy hết vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cũng là một vấn đề đặt ra đối với các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ. Các tổ chức chính trị, xã hội như: công đoàn, đoàn thanh niên, hội liên hiệp phụ nữ, hội cựu chiến binh… chưa được huy động tham gia vào công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, khiến cho hiệu quả của hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ nhiều khi rơi vào hình thức, giáo điều và phụ thuộc nhiều vào vai trò người đứng đầu chứ không phải là các tổ chức đảng, đoàn thể trong viện nghiên cứu, khoa học, công nghệ. Từ khi các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học, công nghệ, vai trò của công đoàn và các tổ chức chính trị-xã hội đã bị suy giảm mạnh, là cơ hội để nảy sinh các hiện tượng chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ trong nghiên cứu khoa học, công nghệ, cơ hội cho xuất hiện các nhóm lợi ích, chủ nghĩa cá nhân; đẩy công tác nghiên cứu khoa học của các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ rơi vào tình trạng lệch lạc, thiếu định hướng, thiếu chiến lược lâu dài, không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.
Việc thiếu sự hỗ trợ từ công đoàn và các tổ chức chính trị-xã hội cũng khiến cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ không được bảo vệ, không được hỗ trợ về quyền lợi, tinh thần và vật chất, làm cho họ không an tâm, chuyên tâm trong nghiên cứu khoa học, thậm chí phải bỏ ra ngoài làm việc để kiếm sống, kéo theo đó là tình trạng chảy máu chất xám. Tình trạng không coi trọng sinh hoạt đảng, sinh hoạt chính trị, phai nhạt lý tưởng, “nhạt đảng, khô đoàn, ngại học chính trị”; thờ ơ trước những hiện tượng tiêu cực trong cơ quan, đơn vị… đã xuát hiện nhiều hơn trong đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ… Đây là một hạn chế rõ rệt, hệ quả của những yếu kém trong giáo dục chính trị, tư tưởng trong các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ cần sớm được khắc phục…
Hai là, nâng cao ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ tham gia các hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng.
Ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ trong các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ có vai trò rất lớn trong kết quả thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Mục đích của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là để nâng cao trình độ lý luận chính trị, qua đó giúp giữ vững lập trường chính trị, tư tưởng của đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ. Tuy nhiên, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ tham gia hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng ở các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ hiện nay còn nhiều hạn chế, do nhiều nguyên nhân. Vấn đề đặt ra là cần quan tâm hơn đến đối tượng giáo dục chính trị, tư tưởng trong Viện, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lợi vật chất và tinh thần của đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ, từ đó khơi dậy tinh thần tập thể, sự tham gia của mỗi người vào các hoạt động chung của viện nghiên cứu khoa học, công nghệ, từ đó giáo dục tính tự giác, tích cực chính trị của mỗi người. Đây phải được coi là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ hiện nay.
Ba là, đổi mới chương trình, nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học ở các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ nói chung chưa được cập nhật, chưa được thiết kế sát với nhu cầu và đặc điểm của đối tượng. Hiện nay, chưa có chương trình riêng, chương trình chuyên đề dành cho cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ, mà vẫn dùng chương trình chung: sơ cấp, trung cấp, cao cấp… cho các đối tượng thuộc các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Tình trạng cán bộ nghiên cứu khoa học có trình độ cao đi học sơ cấp lý luận chính trị cùng chung với các nhóm đối tượng khác là công nhân, người lao động là không hợp lý. Điều này dễ làm nảy sinh tâm trạng và thái độ “bị coi thường” trong đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ. Ngược lại, sự phân biệt trong nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ lãnh đạo cấp cao, cấp chiến lược, cấp trung với đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học; giữa người làm chính sách với người làm khoa học; giữa cán bộ với nhân viên, một phần dẫn đến sự thiếu gắn kết trong tổ chức giáo dục chính trị, tư tưởng trong các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng trong các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ chưa gắn với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong nghiên cứu khoa học. Thực tế đã có sự so sánh, trước đây, khi đất nước chưa đổi mới, điều kiện kinh tế và chế độ đãi ngộ vật chất, như hiện nay, nhưng nhờ hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng được tiến hành tốt, có hiệu quả mà đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học của các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ đã phát huy được tinh thần yêu nước, sự cống hiến, đi đầu trong nghiên cứu, phát minh, sáng chế khoa học, công nghệ. Còn trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay, đã gián tiếp hình thành nên tư tưởng “tư hữu”, cá nhân hóa trong nghiên cứu khoa học, công nghệ, kích thích chủ nghĩa cá nhân phát triển. Đã xuất hiện tình trạng tranh không lành mạnh trong các phát minh, nghiên cứu khoa học, tạo nên mảnh đất màu mỡ để hình thành các nhóm lợi ích, chủ nghĩa tư bản thân hữu, sân sau gia đình…trong môi trường nghiên cứu khoa học, công nghệ. Chủ nghĩa cá nhân đã góp phần làm nảy sinh sự tầm thường hóa trong nghiên cứu khoa học, coi trọng lợi ích vật chất đơn thuần cao hơn lợi ích khoa học của tập thể, dân tộc, đất nước, hình thành chủ nghĩa địa phương, cục bộ, chủ nghĩa vùng/miền, sự xung đột lợi ích giữa các nhóm nghiên cứu, tổ chức, đơn vị nghiên cứu khoa học. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do sự yếu kém của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ… Vấn đề đặt ra là cần tập trung giải quyết những hạn chế về nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng, để qua đó giúp hạn chế những tác động tiêu cực đến với đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học trong các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ trong bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay.
Bốn là, tìm tòi, vận dụng phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng phù hợp với đặc điểm đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, bao gồm cả hình thức, phương pháp, phương tiện dành cho giáo dục chính trị, tư tưởng, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu trong thực tiễn.
Hình thức, phương pháp giáo dục chính trị còn đơn điệu, chậm đổi mới, chưa phù hợp với đối tượng là đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học trong các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ. Phương pháp giáo dục còn chậm được đổi mới, mang tính một chiều, áp đặt, không phát huy được tính tích cực của đối tượng. Việc sử dụng các phương pháp, hình thức hiện đại chưa được đồng bộ, đồng đều. Việc giảng dạy lý luận chính trị chưa gắn lý luận với thực tiễn của các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ. Thiếu các phương pháp xây dựng tình huống thực tiễn gắn với lĩnh vực công tác nhiên cứu khoa học, công nghệ. Một số phương pháp mới, được đánh giá mang lại hiệu quả cao, phát huy được tính tích cực, chủ động của đối tượng, như đàm thoại, thảo luận nhóm, hỏi đáp, luyện tập… chưa được khai thác, sử dụng thường xuyên… Bên cạnh đó, do những hạn chế trong phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng từ các chủ thể, nên việc sử dụng quỹ thời gian trong hoạt động giáo dục lại chưa thực sự tiết kiệm và hiệu quả, một số giảng viên, báo cáo viên chưa sử dụng hết thời gian lên lớp…
Hoạt động tuyên truyền miệng là một phương thức tuyên truyền có hiệu quả, ngay cả trong điều kiện bùng nổ phương tiện thông tin trong xã hội như hiện nay. Tuy nhiên, ở các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ, tổ chức của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên làm công tác tuyên truyền miệng, tham gia giáo dục chính trị, tư tưởng còn lỏng lẻo, hoạt động không thường xuyên, chưa đều tay. Nhiều báo cáo viên, tuyên truyền viên không hoặc ít tham gia tuyên truyền chính trị với nhiều lý do. Đây cũng là hạn chế trong hình thức hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng cần sớm khắc phục.
Phương tiện giáo dục chính trị, tư tưởng ở các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ nói chung còn thiếu, chưa đồng bộ. Đa số sử dụng hội trường lớn, dành cho tổ chức hội nghị làm lớp học lý luận chính trị. Nhiều hạng mục, công trình nghiên cứu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ đã được triển khai, xây dựng và hoàn thiện nhưng không được đem ra sử dụng… Cơ sở vật chất, điều kiện đi lại, khả năng tập trung đầy đủ cán bộ, đảng viên của một số đơn vị trực thuộc các viện nghiên cứu khoa học lớn như Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam còn hạn chế, ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng trong các viện này. Nhìn chung, các điều kiện bảo đảm cho công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học ở các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ chưa được đầu tư một cách thỏa đáng so với đòi hỏi của công tác này trong bối cảnh mới.
Năm là, sự gắn kết hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng với hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ về hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù đã qua những lớp đào tạo bài bản, hệ thống, có đầy đủ các loại bằng cấp, chứng chỉ về trình độ lý luận chính trị, nhưng trên thực tế nhận thức về chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, không gắn với với hoạt động chuyên môn, nghiên cứu khoa học của mỗi cá nhân cũng như trên phạm vi của viện. Thái độ và niềm tin chính trị của đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ còn chưa thực vững chắc. Có một bộ phận không nhỏ chưa thực sự vững tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tương lai phát triển của đất nước.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ nghiên cứu khoa học giảm sút ý chí phấn đấu vươn lên, ngại khó khăn, vất vả; sa vào chủ nghĩa thực dụng. Một số có lối sống ích kỷ, buông thả, thờ ơ, vi phạm pháp luật Nhà nước. Một số tỏ ra băn khoăn, lo lắng, hoài nghi về khả năng tổ chức thực hiện nghị quyết, mục tiêu xã hội chủ nghĩa, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Không ít cán bộ nghiên cứu khoa học còn phân vân, thiếu tin tưởng vào hiệu quả thực hiện một số chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chống tham nhũng, xóa bỏ các tệ nạn xã hội, cải cách hành chính và xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả… Từ những hạn chế về nhận thức, một số cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ đã mất cảnh giác trước âm mưu chống phá của kẻ thù, thậm chí vô tình tiếp tay cho họ phổ biến, tán phát các sản phẩm độc hại trong xã hội…
Một biểu hiện cụ thể khác trong những hạn chế này là hành vi vi phạm đạo đức của một cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ; không hoàn thành đúng chất lượng và thời hạn trong nghiên cứu khoa học và công việc được giao. Một số cán bộ nghiên cứu khoa học không tích cực tham gia các hoạt động xã hội, thờ ơ hoặc quay lưng với các phong trào chung của các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ. Một số có thái độ phủ nhận các hoạt động xã hội có ý nghĩa, như: hoạt động về nguồn, đền ơn đáp nghĩa, chung tay giúp đỡ đồng bào vùng sâu, vùng xa, xóa đói, giảm nghèo…
4. Kết luận
Với sự phân tích nêu trên cho thấy, hiện còn nhiều vấn đề đặt ra đối với hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học của các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ hiện nay. Đó có thể coi là những vấn đề mang tính cấp thiết, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng của lãnh đạo các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ, vì mục tiêu xây dựng đội ngũ các nhà khoa học, công nghệ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững vàng về lý luận chính trị tư tưởng, theo quan điểm của Đảng trong công cuộc đổi mới.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 167.
2, 3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.