Somsavanh Douangsavanh
NCS Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết làm rõ những kết quả đạt được về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Lào trong thời gian vừa qua, những điểm mạnh, hạn chế và nguyên nhân; trên cơ sở đó, đề xuất một số định hướng cơ bản nhằm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Lào trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới, góp phần xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chính phủ Lào đã đặt ra.
Từ khoá: Hệ thống ngân hàng Lào, tái cơ cấu hệ thống, định hướng tái cơ cấu.
1. Đặt vấn đề
Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Lào là xu thế tất yếu khách quan, là yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho Chính phủ Lào, có cách thức, biện pháp hợp lý vừa quản lý, điều hành, huy động các nguồn vốn phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, vừa bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, xây dựng đất nước Lào phát triển, góp phần tích cực vào việc củng cố, giữ vững hoà bình ở khu vực Đông Nam Á và thế giới. Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, điều hành của Chính phủ việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Lào đạt được nhiều kết quả quan trọng về ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm pháp, đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, từng bước khắc phục khó khăn, hạn chế về nguồn vốn. Điều đó được biểu hiện cụ thể ở một số kết quả sau:
2. Một số kết quả đạt được
Trong suốt thời gian tái cơ cấu và chấn chỉnh hệ thống ngân hàng Lào (ngân hàng CHDCND Lào, hệ thống ngân hàng thương mại và điều hành chính sách) đã đạt được mức kết quả đáng kể nhất định. Ngân hàng CHDCND Lào đã hoàn thiện chức năng và vị trí cơ bản, trở thành cơ quan chính trong điều hành chính sách tiền tệ và quản lý các tổ chức tín dụng quốc gia. Chủ động thực hiện chính sách tiền tệ nhằm mục đích ổn định giá trị đồng nội tệ và góp phần tăng trưởng kinh tế. Hệ thống pháp lý liên quan đến hoạt động ngân hàng CHDCND Lào được hoàn thiện cơ bản, bộ máy tổ chức được hoàn thiện cơ bản, như: có hội đồng quản trị, ban giám đốc, lãnh đạo các vụ. Trong đó bao gồm: 5 chi nhánh, 21 vụ và tương đương với vụ.
Lào có chi phí tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở mức trung bình thấp trong nhóm các nước ASEAN, góp phần tiết kiệm được khoản tiền rất lớn cho ngân sách nhà nước. Hệ thống ngân hàng không ngừng cải thiện và nâng cao vị trí vai trò trong hệ thống tài chính và nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng thương mại chủ động thực hiện hoạt động kinh doanh, cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động ngân hàng thương mại ngày càng hoàn thiện hơn. Hệ thống ngân hàng thương mại tăng trưởng cả số lượng và chất lượng. Ví dụ, năm 1975, không có ngân hàng thương mại đến năm 2020, có 43 ngân hàng thương mại, đồng thời có nhiều loại sở hữu đa dạng, như: 3 ngân hàng quốc doanh – SOCBs (State – Owned Commercial Bank), 3 ngân hàng liên doanh với nhà nước (Joint State Commercial Bank), 8 ngân hàng tư nhân (Private Bank), 8 ngân hàng nước ngoài là công ty con của ngân hàng nước ngoài (Subsidiary Bank) và 21 chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Foreign Commercial Bank Branch). Quy mô của hệ thống ngân hàng cũng tăng trưởng đáng kể sau khi thực hiện tái cơ cấu. Cụ thể, như: năm 1990, tổng tài sản 95,1 tỷ kíp, đến năm 2019: 154,561.09 tỷ kíp.
Sau khi chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hai cấp vào những năm 1990 và sự ra đời của Luật Đầu từ năm 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2016; Luật Ngân hàng thương mại cũng dần hoàn thiện năm 1992, 2016 và 2018 là hệ thống cơ sở pháp lý thúc đẩy có sự hiện diện của ngân hàng thương mại nước ngoài tại thị trường ngân hàng Lào. Cơ cấu hệ thống ngân hàng Lào có sự chuyển dịch theo hướng tích cực và đa dạng hình thức. Hiện nay, các loại ngân hàng thương mại Lào, bao gồm: ngân hàng quốc doanh, ngân hàng liên doanh, ngân hàng tư nhân và ngân hàng nước ngoài.
Theo ADB (2002), trong giai đoạn khủng hoảng tài chính Đông Nam Á (1997-1999), 2/3 SOCBs Lào rơi vào tình trạng khó khăn tài chính và mất khả năng thanh toán, hiện tượng đó rất nguy hiểm vì SOCBs chiếm tỷ trọng thị trường tất cả lĩnh vực (tài sản, tiền gửi và tín dụng) > 60%. Theo sự tính toán về mặt kỹ thuật SOCBs mất tính thanh khoản 380 tỷ kíp (50 triệu $). Cuối năm 1997, từ 25%-70% của tổng dư từng ngân hàng. Năm 1999, SOCBs có giá trị tài sản ròng âm tới 245 tỷ kíp tương đương 33,4 triệu $. Để cứu các SOCBs, Chính phủ đã thúc đẩy quá trình sát nhập 7 ngân hàng quốc doanh còn 4 ngân hàng quốc doanh để tăng sức mạnh tài chính. Đồng thời, tái cấp vốn lần thứ 2 cho các ngân hàng SOCBs yếu kém khoảng 380 tỷ kíp tương đương 50 triệu $ thông qua tiền mặt (4 tỷ kíp) và phát hành trái phiếu kho bạc (340 tỷ kíp). Kết quả tái cấp vốn hai lần (lần 1 năm 1994 và lần 2 năm 1999) đã lấy lại hệ thống ngân hàng ổn định, tỷ lệ nợ xấu giảm còn 1 con số và hệ số an toàn về vốn cao hơn mức quy định (Car>8%), có một ngân hàng quốc doanh được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Lào. SOCBs tiếp tục phát triển và trở thành đầu tầu của ngành ngân hàng Lào đến bây giờ.
Hiện nay, chỉ số về an toàn về vốn của hệ thống ngân hàng thương mại được cải thiện và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung ổn định, nợ xấu (NPL) của nhóm ngân hàng quốc doanh (SOCBs) được xử lý đáng kể.
Giai đoạn năm 1994 – 1999, là giai đoạn khó khăn nhất đối với hệ thống ngân hàng thương mại Lào, có rủi ro vỡ nợ và quy mô ảnh hưởng xấu tới hệ thống tiền tệ quốc gia vì lúc đó, 2/3 ngân hàng quốc doanh đang mất tính thanh khoản và nợ xấu cao tới 60%. Tuy nhiên, Chính phủ đã có biện pháp xử lý kịp thời thông qua biện pháp tái cấp vốn, làm cho hệ thống ngân hàng ổn định và khôi phục khả năng sinh lời. Cùng các biện pháp tái cấp vốn, Chính phủ cũng đã thực hiện nhiều biện pháp, như: cải thiện quản trị doanh nghiệp, hoàn thiện hệ thống pháp lý, tăng cường hoạt động thanh tra giám sát, cải thiện môi trường kinh doanh đặc biệt cải thiện điều hành chính sách phù hợp, giảm tín dụng trực tiếp chính phủ, cải thiện ngân hàng trung ương,… đã tạo môi trường thuận lợi cho hệ thống ngân hàng khôi phục khả năng sinh lời. Các chỉ số khả năng sinh lời trên tài sản (ROA) và khả năng sinh lời trên vốn của hệ thống ngân hàng có xu hướng tích cực trở lại. Cụ thể như: khôi phục chức năng và tăng cường năng lực trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng.
Như vậy, trong suốt thời gian tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, Chính phủ Lào luôn ưu tiên khôi phục chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng Lào. Những giai đoạn đầu thực hiện cải cách nền kinh tế và tài chính nói chung và nói riêng tái cơ cấu hệ thống ngân hàng (đầu năm 1990), chênh lệch trung bình lãi suất là âm (năm 1990 là -3,25% và năm 1991 là -1,25%), do trung bình lãi suất tiền gửi cao hơn trung bình lãi suất cho vay, sau đó chênh lệch trung bình hai lãi suất bắt đầu dương. Điều đó, khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh vì chi phí vốn thấp hơn và góp phần tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, thể hiện mức độ hiệu quả hoạt động hệ thống ngân hàng được cải thiện tốt hơn. Như vậy, chênh lệch trung bình hai lãi suất cũng được đánh giá là một kết quả đạt được từ những cuộc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Lào.
3. Hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Lào cũng đã mang lại một số kết quả ấn tượng, nhưng cũng còn một số hạn chế nhất định. Tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế chậm, từ năm 2016-2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Lào có xu hướng giảm, tăng trưởng trong khoảng 4-6%.
Trong thời gian qua, Chính phủ đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống ngân hàng và giải cứu một số ngân hàng đối phó nguy cơ mất tính thanh khoản hay thậm chí phá sản và sẽ gây hậu quả không thể thương lượng. Đặc biệt, tái cấp vốn nhóm ngân hàng quốc doanh vào năm 1994 và 1999 nhằm giải quyết nợ xấu và tăng vốn cho các ngân hàng tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, từ năm 2015-2019, có một số trong nhóm ngân hàng quốc doanh hoạt động kém hiệu quả và đang đối phó với tình hình khó khăn kinh tế. Hiện nay, chính phủ đang cân nhắc kế hoạch cổ phần hóa ngân hàng quốc doanh nhằm tăng cường quản trị doanh nghiệp và làm lành mạnh tài chính hệ thống ngân hàng.
Mặc dù, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng cũng đã giúp cho hệ thống ngân hàng cải thiện và nâng cao khả năng sinh lời, tỷ lệ an toàn về vốn (hệ số CAR) và tỷ lệ an toàn vốn cấp I (CORE) của hệ thống ngân hàng so với thời gian ban đầu thực hiện tái cơ cấu. Tuy nhiên, tỷ lệ an toàn về vốn (hệ số CAR) và tỷ lệ an toàn vốn cấp I (CORE) của hệ thống ngân hàng thương mại Lào cũng chưa cao so với hệ thống ngân hàng thương mại của một số nước trong khu vực.
Nguyên nhân của hạn chế, do: (1) Môi trường kinh tế – tài chính khu vực và quốc tế. Trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Lào đã chịu tác động trực tiếp và gián tiếp từ kinh tế – tài chính khu vực và quốc tế. (2) Môi trường kinh tế trong nước. Môi trường kinh tế trong nước cũng là nguyên nhân dẫn tới hạn chế trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Lào. (3) Ngân sách nhà nước còn hạn chế. (4) Tình trạng đô la hóa còn cao.
4. Một số định hướng cơ bản tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Lào trong thời gian tới
Định hướng chung là nhằm bảo đảm cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng liên tục, ổn định và cân bằng thông qua việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Năm 2020 nỗ lực chuyển đổi cơ cấu kinh tế đạt được, như: ngành Nông lâm chiếm 19%, ngành Công nghiệp chiếm 32% và ngành Dịch vụ chiếm 41% của tổng thu nhập quốc dân (GDP), thuế nhập khẩu 8%, tập trung phát triển vào ngành có lợi thế cao, cho lợi nhuận nhanh và tạo ra giá trị gia tăng, đồng thời khuyến khích các phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) nâng cao năng lực cạnh tranh, có hệ thống sản xuất theo trang trại toàn diện gắn liền với thị trường và chế biến. Tập trung xây dựng hệ thống cơ sở pháp lý về đầu tư minh bạch nhằm thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân, bảo đảm cho Nhân dân được hưởng lợi ích từ đầu tư, doanh nghiệp hóa, tài sản hóa thành vốn, quản lý đất đai.
Định hướng mục tiêu cụ thể, tiếp tục ổn định tình hình tiền tệ quốc gia, đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội tăng trưởng liên tục và bền vững. Phát triển thị trường tiền tệ thông qua việc quản lý bằng hệ thống công cụ và cơ chế quản lý phù hợp từng giai đoạn. Xây dựng các tổ chức tín dụng, đa dạng hình thức hoạt động và hình thức sở hữu nhằm cung cấp dịch vụ với phạm vi mở rộng và toàn diện, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Mở rộng hợp tác trong khu vực và thế giới để tăng cường phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng – tiền tệ lành mạnh và hiện đại. Thúc đẩy và tạo điều kiện cho xã hội tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính, có sự quản lý bằng pháp luật thống nhất và toàn diện hơn.
Tiếp tục giữ vững ổn định chiến lược phát triển hệ thống tổ chức tín dụng – tiền tệ của Lào. Ổn định tình hình tiền tệ quốc thông qua hệ thống quản lý tỷ giá lạm phát ở mức một con số và thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tăng trưởng theo kế hoạch của chính phủ đề ra; ổn định tỷ giá hối đoái và giao động trong khoảng +/-5%/năm so với đồng ngoại tệ chính; quản lý lượng tiền sao cho phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế; bảo đảm mức dự trữ ngoại tệ trong từng giai đoạn.
Tiếp tục ổn định tình hình tiền tệ quốc gia nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội tăng trưởng liên tục và bền vững. Phát triển thị trường tiền tệ trở thành công cụ quản lý tính thanh khoản của hệ thống tổ chức tín dụng – tiền tệ một cách hiệu quả, xây dựng sự lành mạnh cho các tổ chức tín dụng phi ngân hàng để tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận vốn nhiều hơn. Phát triển hệ thống thanh toán quốc gia tập trung để đảm nhận mọi giao dịch thanh toán trong phạm vi toàn quốc và hội nhập quốc tế.
5. Kết luận
Những định hướng trên có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại với nhau, có nội hàm, biểu hiện riêng nhưng đều nằm trong tính chỉnh thể thống nhất. Trong quá trình tổ chức thực hiện cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc những quan điểm, đường lối của Đảng, Chính phủ Lào đã xác định, bảo đảm đúng định hướng, mục tiêu, phương hướng chính trị về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Lào. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nhằm khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của mỗi bộ phận vì sự phát triển chung của đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Quốc Hưng (2021). Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào, Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng 6/2021.
2. Ngân hàng CHDCND Lào (2018). Quyết định số 512/NHNN ngày 29/6/2018 về việc phân cấp nợ và mức trừ tiền dự trù đối với nợ có phân cấp của ngân hàng thương mại.
3. Ngân hàng CHDCND Lào (2017). Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của hệ thống Ngân hàng thương mại Lào giai đoạn 2011 – 2017.