Phát huy giá trị văn hóa các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở Việt Nam

Đại úy, ThS. Nguyễn Trung Kiên
Trường Đại học An ninh nhân dân

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong xu thế hội nhập và phát triển về mọi mặt, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao, hoạt động du lịch bắt đầu xuất hiện và có xu hướng phát triển mạnh mẽ. Trong đó, hoạt động du lịch văn hóa, tâm linh thông qua các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang góp phần không nhỏ trong đẩy mạnh phát triển kinh tế, đồng thời quảng bá hình ảnh văn hóa, đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. So với các quốc gia khác trong khu vực, Việt Nam được coi là quốc gia có nhiều lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo và nhiều tiềm năng, điều kiện trong phát triển du lịch. Nhưng thực tiễn, các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo còn một số hạn chế nhất định ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh tế – xã hội, trong đó có lĩnh vực du lịch. Do đó, việc phát huy giá trị văn hóa các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở Việt Nam cần được nghiên cứu một cách tổng thể nhằm đưa ra những giải pháp hiệu quả trong thời gian tới.

Từ khóa: Du lịch, Lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo, giá trị văn hóa.

1. Nhận thức, tư duy mới về tín ngưỡng, tôn giáo và nguồn lực tôn giáo

Nhận thức, tư duy mới về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và nguồn lực tôn giáo nói riêng là quá trình phát triển phù hợp quy luật phát triển của đất nước qua các giai đoạn lịch sử. Trước hết, đó là sự ra đời của Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết đã khẳng định: “Tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Tiếp đến là Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác tôn giáo là sự phát triển nâng cao, hoàn chỉnh của Nghị quyết số 24-NQ/TW và trở thành quan điểm chính thức về đổi mới công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết số 25-NQ/TW đã tổng kết và phát triển tư duy lý luận của Đảng về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định rõ hơn “tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội” cụ thể hóa quan điểm “tồn tại lâu dài” của tôn giáo, nhưng phát triển và làm rõ mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”1. Thông qua đó cho thấy, Đảng và Nhà nước đã ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp, nguồn lực to lớn của tôn giáo trong sự nghiệp phát triển đất nước.

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo với 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo2. Vì vậy, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng sôi động và mang đậm bản sắc riêng. Đảng và Nhà nước đã nỗ lực bảo đảm và tạo điều kiện để sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phát triển, đặc biệt những ngày lễ trọng của các tôn giáo, như: lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam, lễ Phật Đản, lễ Vu Lan của Phật giáo; lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh của Công giáo và Tin lành; lễ hội Yến Diêu Trì Cung của đạo Cao đài; lễ hội Katê của đồng bào Chăm, tháng chay Ramadan của người Hồi giáo, lễ hội Oóc-om-bóc… được tổ chức với quy mô lớn, thu hút đông đảo tín đồ và quần chúng nhân dân ủng hộ, tham gia.

Du lịch đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, trong đó có du lịch tâm linh, hay nói cách khác là phát triển du lịch thông qua các giá trị văn hóa của lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta mang lại. Nhận thức rõ điều này, Đảng và Nhà nước đã nêu rõ quan điểm về phát triển du lịch là huy động mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng đất nước và của từng địa phương, tăng đầu tư phát triển du lịch để bảo đảm du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn.

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn” đã nhấn mạnh quan điểm phát triển du lịch bền vững; bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên… Đồng thời, Nghị quyết xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển du lịch là tập trung phát triển du lịch văn hóa, tâm linh, du lịch cộng đồng có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. Cùng với đó, những quan điểm về tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ đổi mới là bệ phóng để nhiều địa phương trong cả nước từng bước mạnh dạn khai thác và phát huy những giá trị văn hóa lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo nhằm phát triển ngành du lịch phù hợp ở mỗi vùng miền, địa phương.

Có thể thấy, Việt Nam có nhiều tiềm năng và thế mạnh để phát triển du lịch thông qua các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo. Điều đó thể hiện ở bề dày văn hóa gắn với truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng. Hiện nay ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cả nước có đến gần 9.000 lễ hội, trong đó có khoảng 1.400 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo3. Nhiều ngày lễ trọng của các tín ngưỡng, tôn giáo đã trở thành ngày lễ chung của cộng đồng, trở thành những địa điểm du lịch thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Đó chính là một trong những nguồn lực mạnh mẽ của tín ngưỡng, tôn giáo mang lại đóng góp không nhỏ cho sự phát triển chung của quốc gia, dân tộc.

Thông qua khám phá các giá trị lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo, hoạt động du lịch mang lại cảm nhận, trải nghiệm sinh động trong tâm hồn của con người, cân bằng và củng cố đức tin, hướng tới những giá trị chân, thiện, mỹ, góp phần nâng cao nhận thức, kiến thức về văn hóa, niềm tin, truyền thống và lịch sử của dân tộc. Bên cạnh đó, việc phát huy các giá trị văn hóa các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch cũng là hình thức giữ gìn, phát huy những giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam và lan toả những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống cộng đồng.

2. Giá trị văn hóa các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở Việt Nam

Một là, các lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa của cư dân vùng miền.

Trên thực tế, sự phát triển du lịch ở Việt Nam thông qua các giá trị văn hóa lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng thể hiện ở quy mô, tính đa dạng, phong phú ở nhiều vùng miền, địa danh, di tích,… khác nhau trên khắp cả nước, mang đậm bản sắc của vùng miền đó. Khách du lịch tâm linh, tôn giáo ở Việt Nam thường hội tụ về các địa điểm, như: đền, chùa, đình, đài, lăng tẩm, tòa thánh, khu thờ tự, tưởng niệm và những vùng đất linh thiêng gắn với phong cảnh đặc sắc gắn kết với văn hóa truyền thống, lối sống vùng miền và địa phương. Ở đó du khách tiến hành các hoạt động tham quan, tìm hiểu văn hóa lịch sử, triết giáo, cầu nguyện, cúng tế, chiêm bái, tri ân, báo hiếu, thiền, tham gia lễ hội… Điển hình, như: Đền Hùng (Phú Thọ); Yên Tử (Quảng Ninh); chùa Hương (Hà Nội); Phát Diệm (Ninh Bình); núi Bà Đen, Thánh thất Cao Đài (Tây Ninh); chùa Bái Đính (Ninh Bình); Đại Nam Văn Hiến (Bình Dương); miếu Bà Chúa Xứ (An Giang); Côn Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương); Tây Thiên (Vĩnh Phúc); đền Trần – phủ Dầy (Nam Định)…

Du lịch thông qua phát huy giá trị văn hóa các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được xã hội tiếp cận và nhìn nhận tích cực cả về khía cạnh kinh tế và xã hội. Nhà nước ngày càng quan tâm hơn đối với phát triển du lịch tâm linh và coi đó là một trong những giải pháp đáp ứng đời sống tinh thần cho cư dân vùng miền, đồng thời với việc bảo tồn, tôn vinh những giá trị truyền thống, suy tôn những giá trị nhân văn cao cả. Đặc biệt là góp phần tạo nhiều công ăn, việc làm cho người lao động, cư dân địa phương, cải thiện đời sống của người dân cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần; đồng thời, quảng bá hình ảnh văn hóa, đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Kết quả này thể hiện sự đúng đắn chủ trương của nhiều địa phương hiện nay, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo.

Hai là, giá trị văn hóa của các cộng đồng dân tộc Kinh, Hoa, Khmer, Chăm.. được phản ánh rõ nét trong các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo.

Lễ hội mang lại hiệu ứng tích cực trên nhiều khía cạnh của đời sống xã hội, là sự biểu dương của sức mạnh và sự cố kết cộng đồng. Sự phong phú về đời sống văn hóa, tín ngưỡng xuất phát từ việc có nhiều lớp cư dân và dân tộc cùng nhau sinh sống trong một thời gian dài, mỗi một lớp cư dân lại đóng góp những nét văn hóa riêng, độc đáo, khi hòa quyện cùng nhau sẽ tạo nên một diện mạo đời sống tín ngưỡng, tôn giáo phong phú, đa sắc diện thông qua các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng các dân tộc. Điển hình khu vực Duyên hải miền Trung có sự góp mặt của nhiều dân tộc, trong đó chủ yếu là 3 dân tộc: Chăm, Kinh và Hoa. Quá trình du nhập những trào lưu tôn giáo từ bên ngoài làm cho đời sống tâm linh nơi đây có sự đan xen giữa các lớp mới – cũ, trong – ngoài, thể hiện rõ sự đa dạng, phong phú và cả sự tích hợp, giao thoa của các tín ngưỡng, tôn giáo, sự tồn tại của hai yếu tố nông nghiệp và ngư nghiệp tạo nên môi trường văn hóa tâm linh đặc sắc cho khu vực Duyên hải miền Trung.

Hay, tại khu vực tỉnh Tây Ninh – nơi hội tụ, giao thoa của nhiều bản sắc văn hóa dân tộc, với 22 dân tộc anh em sinh sống, như: Khmer, Chăm, Hoa, S’tiêng, Mường, Tày, Thái, Nùng, Dao, H’mông, Êđê, Xơđăng… đã duy trì, phát triển và nâng cao chất lượng các lễ hội truyền thống đặc sắc, như: Hội Xuân núi Bà Đen, Hội thề Rừng Rong, lễ hội Động Kim Quang, Hội Yến Diêu Trì Cung, Vía Đức Chí tôn, Vía Bà, lễ hội Quan Lớn Trà Vong, lễ Kỳ Yên tại các đình, dinh ông; các nhạc lễ, trò lễ… gắn với việc tổ chức thường xuyên, định kỳ các sự kiện thương mại, dịch vụ, giao lưu ẩm thực – văn hoá; đẩy mạnh việc bảo tồn kết hợp khai thác hiệu quả bản sắc văn hóa, lễ hội độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số, các giá trị văn hóa tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn…

Ba là, giá trị văn hóa cộng đồng trong tham gia lễ hội.

Các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam bên cạnh việc sở hữu tính linh thiêng với những giá trị văn hóa đặc biệt thì còn có tính cộng đồng mạnh mẽ rất riêng. Ví dụ: Lễ Phật Đản là ngày lễ lớn được tổ chức hằng năm vào ngày rằm tháng tư để kỷ niệm ngày Đức Phật ra đời, vào ngày này, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại các địa phương trên cả nước tổ chức lễ đón mừng Phật Đản trong không khí trang nghiêm và an lành với sự tham gia không chỉ của các phật tử mà từ phía đông đảo người dân; lễ Giáng sinh (từ tối 24 đến hết ngày 25/12) không có nguồn gốc từ Việt Nam, đó vốn là dịp kỷ niệm ngày chúa Giêsu ra đời, là ngày lễ của những người theo Kitô giáo, như: Công giáo, Tin Lành ở phương Tây nhưng trong những năm gần đây, Giáng sinh đã trở lên rất phổ biến ở Việt Nam, được coi là ngày lễ chung, bao gồm cả những người không theo Công giáo; hay lễ hội hành hương La Vang (Quảng Trị) có xuất xứ rất đặc biệt, nhà thờ La Vang tôn kính Mẹ Maria vốn được xây trên nền của một miếu Bà dành cho người đi rừng, ngày nay La Vang không chỉ là nơi hành hương linh thiêng mà còn là điểm thu hút rất đông du khách khắp cả nước, dù họ theo tôn giáo hay không theo bất cứ tôn giáo nào.

Từ ngày 04/4/2022, theo Quyết định số 776/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, lễ hội Katê của đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn tại tỉnh Bình Thuận được đưa vào danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia. Điều này ghi nhận, lễ hội này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh của đồng bào Chăm mà còn là sân chơi chung của người dân địa phương và du khách. Còn tại tỉnh Tây Ninh, Đại lễ Vía Đức Chí Tôn là một sự kiện hết sức quan trọng, là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống không chỉ của tín đồ đạo Cao Đài mà là của tất cả người dân địa phương, thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc, tương thân tương ái sâu sắc.

Bên cạnh đó, thông qua lồng ghép trong các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo, các giá trị văn hóa còn được thể hiện trong thực tiễn bằng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, hoạt động lợi ích cộng đồng, từ thiện công tác an sinh xã hội, trong đó có các phong trào thi đua mang tính đặc thù của từng tôn giáo, tín ngưỡng, như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh sống tốt đời đẹp đạo”, “Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa”,… Hay trong dịp lễ Phật Đản, lễ Vu Lan báo hiếu, các cơ sở thờ tự của Phật giáo cũng đã tổ chức nhiều hoạt động, phát quà cho các em nhỏ vui trung thu, mừng cỗ…

Bốn là, giá trị văn hóa yêu nước thông qua điển tích hình thành các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo.

Giá trị văn hóa yêu nước thông qua điển tích hình thành các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện độc đáo và đa dạng. Chẳng hạn, như lễ Phật Đản là trọng lễ được tổ chức hằng năm vào ngày rằm tháng tư để kỷ niệm ngày Đức Phật ra đời. Trước và trong dịp Đại lễ, Giáo hội Phật giáo các tỉnh thành, các chùa tích cực tổ chức các hoạt động từ thiện, thăm hỏi và tặng quà cho những tăng, ni, Phật tử có uy tín, có công lao với Đạo pháp hoặc những hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, người tàn tật… Thông qua các hoạt động này là dịp để mỗi người con Phật nhận diện về vai trò của mình đối với trách nhiệm xây dựng xã hội, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, theo đúng phương châm của đạo Phật “sống tốt đời, đẹp đạo”.

Hoặc như lễ Vu Lan trước đây cũng mang nặng màu sắc Phật giáo, chủ yếu nhằm mục đích tưởng niệm, ca ngợi đức Mục Kiền Liên báo hiếu, giải thoát cho mẹ mình khỏi kiếp nạn ở địa ngục và giáo dục, hướng dẫn phật tử thực hành báo hiếu với cha mẹ. Ngày nay, lễ Vu Lan dần trở thành lễ hội mang tính đại chúng. Đại lễ Vu Lan là dịp để nhiều người tỏ lòng hiếu kính đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Hoặc, lễ hội Óc-om-bóc (lễ cúng trăng) – một lễ hội tín ngưỡng lớn trong năm của người Khmer tổ chức khi kết thúc vụ mùa để bày tỏ lòng biết ơn đối với mặt trăng – vị thần theo tín ngưỡng của người Khmer đã giúp bảo vệ mùa màng, điều hòa thời tiết, đem lại cây trái tốt tươi, no ấm cho người dân, qua đó họ có thêm tinh thần và động lực tiếp tục tăng gia sản xuất, góp phần xây dựng quê hương  phum, sóc, đất nước ngày càng giàu mạnh, phát triển…

3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả phát huy giá trị văn hóa của các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở Việt Nam

Giá trị văn hóa các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở Việt Nam đã mang lại nhiều hiệu quả đáng kể, đóng góp tích cực trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc sử dụng, khai thác và phát huy những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển du lịch nói chung ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, như: quá coi trọng mục tiêu hiệu quả kinh tế mà quên đi mục đích tôn vinh văn hóa, phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội; sự phục hồi và khai thác, tổ chức các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay hơi thái quá, thiếu sự quản lý chặt chẽ; một số đối tượng lợi dụng các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo để truyền bá mê tín dị đoan, xuyên tạc… Vì vậy, để nâng cao hiệu quả phát huy giá trị văn hóa của các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở Việt Nam trong thời gian tới, cần chú ý một số nội dung sau:

Thứ nhất, chú ý gắn kết các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo và thực hành lễ hội trong mối quan hệ lợi ích kinh tế – văn hóa – xã hội. Thực tế cho thấy, việc tận dụng và khai thác tốt các giá trị văn hóa trong đời sống tín ngưỡng thông qua các lễ hội, biến chúng trở thành tài nguyên du lịch không những làm cho cư dân địa phương có trách nhiệm hơn trong việc giữ gìn, quản lý di sản văn hóa mà còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng tích cực hơn, tạo điều kiện cho cộng đồng dân cư phát triển bền vững. Mặt khác, thông qua các lợi ích kinh tế mang lại, quần chúng nhân dân sẽ hiểu đúng hơn về những giá trị di sản, từ đó có ý thức lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo mang lại.

Thứ hai, chú ý thực hiện việc kiểm tra, phân loại các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nghi lễ văn hóa, làm cơ sở xây dựng các kế hoạch cụ thể nhằm khôi phục, gìn giữ những phong tục, tập quán tốt đẹp và loại bỏ những hình thức cúng bái có tính mê tín, dị đoan, rườm rà, gây tốn kém. Cần thiết có sự hướng dẫn, định hướng cho quần chúng nhân dân địa phương trong việc tổ chức sinh hoạt lễ hội đúng với văn hóa truyền thống nhằm bảo vệ nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu có hệ thống các nhu cầu lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo nhằm tìm hướng giải quyết thỏa đáng những nhu cầu chính đáng về tâm linh của người dân. Nhiều lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống đã và đang tồn tại ở các địa phương vùng sâu, vùng xa, thể hiện nét đẹp và truyền thống yêu quê hương, đất nước, không những góp phần không nhỏ trong việc làm phong phú thêm đời sống văn hóa – tâm linh của người dân nơi đây, mà còn khuyến khích tính đa dạng và phong phú trong bản sắc của dân tộc. Vì vậy, các cơ quan, sở, ban, ngành địa phương cần tạo điều kiện để các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tích cực được diễn ra một cách lành mạnh; đồng thời, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo, tín ngưỡng, chủ động phòng ngừa, đấu tranh với những hoạt động lợi dụng lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển các tà đạo, xuyên tạc, chống phá.

Thứ tư, trong thời gian tới cần tích cực đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, lan tỏa, truyền thông rộng rãi về các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo cũng như tuyên truyền những giá trị văn hóa các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở Việt Nam trong quần chúng nhân dân. Có lộ trình, định hướng rõ ràng, phù hợp nhằm tạo sự thuận lợi cho việc quảng bá hình ảnh về đất nước, con người, văn hóa, bản sắc Việt Nam trong bạn bè quốc tế.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Nguyễn Thị Diệu Thúy, Vũ Công Giao (2022). Thúc đẩy quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tạp chí Xây dựng Đảng.
3. Dương Thị Hồng Nhung (2021). Khai thác nét đẹp văn hóa dân tộc thông qua các lễ hội truyền thống Việt Nam để phát triển du lịch. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) (2003). Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo.
2. Bùi Hồng Thanh (2023). Khai thác giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở nước ta. Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông.