Ngô Quế Lân
Đại học Bách khoa Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích vai trò, thực trạng và định hướng phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong tiến trình xây dựng nền kinh tế số bền vững tại Việt Nam. Phân tích SWOT chỉ ra điểm mạnh là sự linh hoạt và tiềm năng ứng dụng công nghệ số; điểm yếu là quy mô nhỏ và thiếu kết nối; cơ hội đến từ chính sách quốc gia và thị trường công nghệ; thách thức đến từ yêu cầu kép về các tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG) và cạnh tranh quốc tế. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị với Nhà nước về thể chế, không gian đổi mới, nhân lực; đồng thời khuyến nghị doanh nghiệp nâng cao năng lực nghiên cứu, phát triển, quản trị ESG và mở rộng liên kết nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế số bền vững.
Từ khoá: Doanh nghiệp, khoa học, công nghệ, kinh tế số, bền vững.
1. Đặt vấn đề
Trong kỷ nguyên số, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đang trở thành động lực trọng tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đặt mục tiêu đến năm 2030 (viết tắt là Nghị quyết 57), kinh tế số chiếm tối thiểu 30% GDP, trên 40% doanh nghiệp ứng dụng đổi mới sáng tạo và Việt Nam thuộc top 3 ASEAN về AI, năng lực số. Tầm nhìn đến 2045, kinh tế số chiếm 50% GDP và Việt Nam nằm trong top 30 toàn cầu về đổi mới sáng tạo.
Trong tiến trình này, doanh nghiệp khoa học và công nghệ đóng vai trò then chốt, là cầu nối tri thức – công nghệ – thị trường trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Tuy nhiên số lượng, chất lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ còn chưa tương xứng với kỳ vọng chiến lược. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng, xác định rào cản và đề xuất giải pháp phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ là hết sức cấp thiết, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế số bền vững theo tinh thần Nghị quyết 57.
2. Một số khái niệm
2.1. Khái niệm doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ xuất hiện trên thế giới từ giữa thế kỷ XX, với hai mô hình phổ biến là doanh nghiệp khởi nguồn từ trường đại học (spin-off) và doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ (start-up) dựa trên kết quả nghiên cứu khoa học (Bigliardi et al., 2013; Abbate, 2014).
Tại Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp khoa học và công nghệ được đề cập lần đầu tại Hội nghị Trung ương lần thứ VI (khóa IX). Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, định nghĩa: “Doanh nghiệp khoa học và công nghệ là doanh nghiệp thực hiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm, hàng hóa từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ” (khoản 1 Điều 58). Theo Lê Văn Tuyên (2019), loại hình doanh nghiệp này giữ vai trò trung tâm trong phát triển thị trường khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Về bản chất, doanh nghiệp khoa học và công nghệ là những tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, có khả năng sử dụng hoặc khai thác kết quả nghiên cứu – phát triển từ nội bộ doanh nghiệp, từ các viện, trường, tổ chức khoa học và công nghệ trong nước hoặc từ nước ngoài, trên cơ sở sở hữu và sử dụng hợp pháp. Các kết quả này thuộc danh mục quy định tại Điều 3 Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ quy định cụ thể về các chính sách ưu đãi và hỗ trợ cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ, bao gồm ưu đãi về tín dụng, đất đai và các hỗ trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Bài viết nghiên cứu doanh nghiệp khoa học và công nghệ là chủ thể kinh doanh có năng lực sử dụng hoặc chuyển hóa các kết quả khoa học và công nghệ thành sản phẩm, dịch vụ có giá trị, góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế số bền vững tại Việt Nam. Khái niệm doanh nghiệp khoa học và công nghệ được hiểu là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động hợp pháp, có khả năng sử dụng hoặc khai thác kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ (thuộc danh mục được quy định tại Điều 3 Nghị định số 13/2019 NĐ-CP) để tạo ra sản phẩm, dịch vụ và kinh doanh. Kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ có thể là thành quả của chính doanh nghiệp hoặc được chuyển giao một cách hợp pháp và được công nhận theo pháp luật.
2.1. Kinh tế số và phát triển bền vững
Kinh tế số (digital economy) là khái niệm xuất hiện sau kinh tế nông nghiệp và kinh tế công nghiệp. Khái niệm này được hiểu đơn giản là một nền kinh tế được vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt đó là các giao dịch điện tử trên internet. Theo OECD, kinh tế số được hiểu là tất cả các hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số làm nền tảng, trong đó các hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều dựa trên dữ liệu số và hạ tầng số.
Tại Việt Nam, thuật ngữ kinh tế số không chỉ được hiểu đơn thuần là việc số hóa các hoạt động kinh tế mà còn gắn chặt với mục tiêu phát triển bền vững. Đây là một định hướng chiến lược đã được thể hiện nhất quán trong các nghị quyết của Đảng và chính sách quốc gia. Khi đặt trong mối quan hệ với doanh nghiệp khoa học và công nghệ, yêu cầu phát triển bền vững không chỉ dừng lại ở năng lực ứng dụng công nghệ mới mà còn mở rộng sang việc đáp ứng toàn diện các tiêu chuẩn về môi trường – xã hội – quản trị. Cụ thể, doanh nghiệp khoa học và công nghệ phải thực hiện sản xuất sạch, giảm thiểu phát thải carbon, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; đồng thời bảo đảm các giá trị xã hội như quyền lợi người lao động, bình đẳng giới và an sinh cộng đồng. Mặt khác, quản trị dữ liệu minh bạch, bảo vệ quyền riêng tư số và tuân thủ đạo đức công nghệ cũng trở thành tiêu chí quan trọng trong tiến trình chuyển đổi số. Những yêu cầu này đặt ra một tiêu chuẩn phát triển mới cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ không chỉ là trung tâm đổi mới công nghệ mà còn là tác nhân của sự phát triển bao trùm, xanh và có trách nhiệm, phù hợp với tầm nhìn của Việt Nam về một nền kinh tế số phát triển nhanh nhưng bền vững.
3. Thực trạng phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam
Số lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam có xu hướng tăng trưởng ổn định, phản ánh hiệu quả của chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo và hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực này. Chỉ trong vòng 5 năm, tổng số doanh nghiệp được chứng nhận đã tăng gần 1,75 lần. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ (2024), dù con số này tiếp tục tăng đều nhưng nếu so với mục tiêu 5.000 doanh nghiệp khoa học và công nghệ đến năm 2030 theo Nghị quyết 57 thì tỷ lệ hiện tại mới chỉ đạt khoảng 18%, khoảng cách thực hiện vẫn còn rất lớn.
Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã có giấy chứng nhận ở Việt Nam giai đoạn 2019 – 2024
Năm | Doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã có Giấy chứng nhận | % tăng so với năm trước |
2019 | 468 | – |
2020 | 538 | +15 % |
2021 | ~600 | +≈11 % |
2022 | 712–714 | +18 % |
2023 | 816 | +14 % |
2024 | ~ 900 | +10 % |
Việc tăng trưởng số lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ, cho thấy hệ sinh thái hỗ trợ hiện nay chỉ đang thúc đẩy được lực lượng doanh nghiệp có sẵn, trong khi khó tạo ra đột phá trong việc “ươm tạo” hoặc thương mại hóa sâu các sản phẩm công nghệ. Nếu không có các điều chỉnh chiến lược, đặc biệt là cơ chế ưu đãi tài chính, hỗ trợ vốn mạo hiểm và đơn giản hóa thủ tục pháp lý thì xu hướng tăng hiện tại sẽ khó đạt được mục tiêu vào năm 2030 như kỳ vọng.

Cơ cấu quy mô vốn và lao động của doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam cho thấy, sự phân bố không đều và thiếu cân đối. Đến cuối năm 2023, cả nước có khoảng 816 doanh nghiệp khoa học và công nghệ được chứng nhận, trong đó hơn 81% là doanh nghiệp nhỏ (vốn dưới 50 tỷ đồng, dưới 100 lao động), chỉ khoảng 17% là doanh nghiệp vừa và chưa đến 2% là doanh nghiệp lớn, như: FPT, Viettel, VNG, VinAI. Điều này phản ánh thực trạng phần lớn doanh nghiệp khoa học và công nghệ còn nhỏ lẻ, thiếu vốn, nhân lực chất lượng cao và năng lực nghiên cứu, phát triển chiều sâu.
Sự thiếu hụt nghiêm trọng doanh nghiệp quy mô vừa – vốn được xem là “xương sống” của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đang cản trở khả năng hấp thụ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ viện – trường. Doanh nghiệp nhỏ dù linh hoạt nhưng gặp nhiều rào cản về vốn, sở hữu trí tuệ và mở rộng quy mô. Trong khi đó, doanh nghiệp lớn quá ít nên chưa tạo được vai trò dẫn dắt thị trường, chuỗi cung ứng hay lan tỏa đổi mới. Cơ cấu này đặt ra yêu cầu cấp thiết về chính sách phát triển cân bằng nhằm xây dựng hệ sinh thái doanh nghiệp khoa học và công nghệ bền vững và hiệu quả hơn.
Dữ liệu tổng hợp từ 2018 đến 2021 cho thấy, xu hướng tập trung rõ rệt của doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại hai trung tâm là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, chiếm hơn 45% tổng số doanh nghiệp khoa học và công nghệ toàn quốc.

Tính đến năm 2023, Hà Nội dẫn đầu cả nước với khoảng 165 doanh nghiệp khoa học và công nghệ, dự kiến đạt gần 170 vào năm 2024 nhờ lợi thế hệ sinh thái đại học, viện nghiên cứu và chính sách hỗ trợ mạnh mẽ. TP. Hồ Chí Minh tăng trưởng chậm hơn, từ 102 doanh nghiệp (2021) lên khoảng 110 doanh nghiệp (2024), phần do chi phí vận hành cao và xu hướng chuyển dịch đầu tư sang các tỉnh vệ tinh. Hải Phòng ghi nhận bước tiến vượt bậc, từ 3 doanh nghiệp (2019) lên 68 (2024), nổi bật như một cực phát triển công nghệ mới ở phía Bắc nhờ thu hút FDI công nghệ cao và đầu tư hạ tầng khu kinh tế ven biển. Đà Nẵng phát triển ổn định, đạt khoảng 19 doanh nghiệp vào năm 2024, theo định hướng “thung lũng số” miền Trung. Cần Thơ tăng từ 3 lên 14 doanh nghiệp, nhưng vẫn thấp so với tiềm năng vùng đồng bằng song Cửu Long.
Tổng thể, doanh nghiệp khoa học và công nghệ vẫn phân bố mất cân đối giữa các vùng. Ngoài Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số đô thị ven biển, các địa phương còn lại phát triển chậm, làm hạn chế khả năng mở rộng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trên phạm vi cả nước.
4. Phân tích SWOT thực trạng phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam
Từ bức tranh thực trạng đã phân tích, có thể nhận diện rõ các ưu thế nội tại cũng như thách thức mà doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam đang đối mặt trong quá trình phát triển.
Về điểm mạnh, sự gia tăng ổn định về số lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong giai đoạn gần đây phản ánh tín hiệu tích cực từ các chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Một số địa phương, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã bước đầu hình thành hệ sinh thái nghiên cứu – đào tạo – doanh nghiệp, tạo nền tảng thuận lợi cho phát triển công nghệ. Các doanh nghiệp khoa học và công nghệ cũng cho thấy khả năng linh hoạt trong tiếp cận công nghệ số, từng bước tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp thông minh, năng lượng tái tạo, y tế số – những ngành gắn với mục tiêu phát triển bền vững.
Về điểm yếu, phần lớn doanh nghiệp khoa học và công nghệ vẫn nhỏ về quy mô, hạn chế về vốn, thiếu nhân lực nghiên cứu, phát triển và chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quản trị phát triển bền vững (ESG). Liên kết giữa doanh nghiệp với cơ sở đào tạo còn lỏng lẻo, làm giảm hiệu quả thương mại hóa nghiên cứu. Mặt khác, sự tập trung ở các thành phố lớn dẫn đến mất cân đối vùng miền, cản trở mở rộng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn quốc.
Về cơ hội, Việt Nam đang thúc đẩy phát triển kinh tế số với mục tiêu rõ ràng trong Nghị quyết 57, xác định doanh nghiệp khoa học và công nghệ là lực lượng nòng cốt. Các chính sách ưu đãi về thuế, sandbox công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm đang tạo điều kiện thuận lợi. Bối cảnh dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu và nhu cầu tăng cao về công nghệ trong nước cũng mở ra dư địa phát triển mới.
Về thách thức, doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh với tập đoàn quốc tế có tiềm lực mạnh và chuẩn ESG cao. Đồng thời, yêu cầu kép của kinh tế số bền vững, đổi mới công nghệ gắn với trách nhiệm môi trường và xã hội, đòi hỏi năng lực mà nhiều doanh nghiệp còn thiếu. Ngoài ra, nhân lực chất lượng cao, thể chế bảo hộ tài sản trí tuệ và tài chính xanh vẫn là những điểm nghẽn lớn.

5. Một số khuyến nghị
5.1. Đối với Nhà nước
Thứ nhất, cần hoàn thiện hành lang pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp khoa học và công nghệ phát triển trong môi trường kinh tế số; sửa đổi các quy định liên quan đến định giá tài sản trí tuệ, cơ chế xác lập và chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tạo thuận lợi cho việc tiếp cận tín dụng, đầu tư mạo hiểm và thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu. Bộ Tài chính cần rà soát, mở rộng các chính sách ưu đãi thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp và chi phí nghiên cứu, phát triển, khấu hao tài sản công nghệ cao.
Thứ hai, cần tái cấu trúc không gian đổi mới sáng tạo theo hướng giảm phụ thuộc vào hai trung tâm lớn (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh), chuyển hướng hỗ trợ hình thành các cụm khoa học và công nghệ vùng tại Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ… Uỷ ban nhân dân các tỉnh cần xây dựng mô hình trung tâm đổi mới sáng tạo phù hợp với lợi thế địa phương (nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế biến, năng lượng tái tạo…) và thí điểm cơ chế sandbox linh hoạt cho doanh nghiệp thử nghiệm mô hình mới.
Thứ ba, cần thúc đẩy liên kết cơ sở đào tạo và doanh nghiệp thông qua các chương trình đổi mới sáng tạo mở, chia sẻ sở hữu trí tuệ và hỗ trợ đặt hàng nghiên cứu. Đồng thời, cần đầu tư phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao, lồng ghép giữa đào tạo hàn lâm với nhu cầu doanh nghiệp.
5.2. Đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Doanh nghiệp cần chủ động nâng cao năng lực nghiên cứu, phát triển, đầu tư bài bản cho chuyển giao công nghệ và áp dụng công nghệ số trong toàn bộ chuỗi giá trị. Ngoài ra, cần xây dựng chiến lược quản trị ESG rõ ràng, hướng đến phát triển bền vững và tuân thủ tiêu chuẩn phát thải thấp, minh bạch dữ liệu, trách nhiệm xã hội. Doanh nghiệp cũng nên tăng cường liên kết dọc – ngang trong hệ sinh thái khoa học và công nghệ, kết nối với viện nghiên cứu, trường đại học và các nền tảng đổi mới sáng tạo quốc gia để nâng cao sức cạnh tranh và khả năng mở rộng quy mô.
6. Kết luận
Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh chuyển đổi số và phát triển bền vững, doanh nghiệp khoa học và công nghệ đóng vai trò trung tâm trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Mặc dù số lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ tăng trưởng đều nhưng vẫn còn tồn tại nhiều rào cản về quy mô, chất lượng nguồn nhân lực, liên kết với viện – trường và khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Phân tích SWOT cho thấy các tiềm năng, song cũng cảnh báo những thách thức trong cạnh tranh, năng lực về ESG và thể chế bảo vệ sở hữu trí tuệ. Do đó, cần có sự đồng hành mạnh mẽ từ Nhà nước và nỗ lực tự thân của doanh nghiệp để kiến tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy sáng tạo, xanh hóa sản xuất và quản trị minh bạch, từ đó đóng góp thực chất vào mục tiêu xây dựng nền kinh tế số bền vững tại Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Abbate, T., & Cesaroni, F. (2014). Market orientation and academic spin-off firms. Universidad Carlos III de Madrid. https://doi.org/10.2139/ssrn.19898843
2. Barbara, B., Galati, F., & Verbano, C. (2013). Evaluating performance of university spin-off companies: Lessons from Italy. Journal of Technology Management & Innovation, 8(2). http://www.jotmi.org
3. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
4. CESTI (2022). Phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ: chất, lượng phải song hành. Hệ thống thông tin thống kê Khoa học & Công nghệ. https://thongke.cesti.gov.vn/an-pham-thong-ke/thong-tin-chuyen-de-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao/1014-phat-trien-doanh-nghiep-khoa-hoc-cong-nghe-chat-luong-phai-song-hanh
5. Chính phủ (2019). Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 về doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
6. Lê Văn Tuyên (2018). Phát triển thị trường khoa học và công nghệ tại thành phố Hà Nội: Thực trạng và giải pháp. https://www.tapchicongsan.org.vn/thanh-pho-ha-noi/-/2018/53653/phat-trien-thi-truong-khoa-hoc-va-cong-nghe-tai-thanh-pho-ha-noi–thuc-trang-va-giai-phap.aspx#
7. Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Hồng Hà, Lê Vũ Toàn (2019). Doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam: thực trạng và giải pháp phát triển. https://www.researchgate.net/publication/331988079.
8. OECD (2020). Digital economy outlook 2020. Paris: OECD Publishing. https://doi.org/10.1787/bb167041-en.
9. Romer, P. M (1990). Endogenous technological change. Journal of Political Economy, 98(5), S71–S102. https://doi.org/10.1086/261725.