Thiếu tá Vũ Tuấn Mạnh
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định vai trò, tầm quan trọng của ổn định chính trị – xã hội trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn các tỉnh Bắc Trung Bộ là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Do vậy, để giữ vững ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn cần phải phát huy tổng hợp các nguồn lực, trong đó có nguồn lực tôn giáo. Bài viết đề cập một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực tôn giáo tham gia giữ vững ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn các tỉnh Bắc Trung Bộ trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Nguồn lực tôn giáo; ổn định chính trị – xã hội; giữ vững ổn định chính trị – xã hội.
1. Đặt vấn đề
Ổn định chính trị – xã hội ở Việt Nam là trạng thái phát triển bình thường, có trật tự, kỷ cương trên các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo; hệ thống chính trị các cấp hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế – chính trị, các quan hệ chính trị – xã hội, quốc phòng – an ninh được giữ vững, tạo môi trường, điều kiện, tiền đề và là nhân tố thuận lợi để phát triển đất nước bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung giữ vững ổn định chính trị – xã hội, được xác định: bảo đảm cho Nhân dân có tư tưởng chính trị ổn định; giữ vững lòng tin của tuyệt đại đa số Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, có tổ chức chặt chẽ, đoàn kết thống nhất; phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân; xây dựng, phát triển sự đồng thuận trong xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường quốc phòng, an ninh; chủ động, tăng cường đấu tranh triệt tiêu các nhân tố tiềm ẩn có thể gây mất ổn định chính trị – xã hội.
Khu vực Bắc Trung Bộ là địa bàn “có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại”1 của nước ta. Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đặt ra những yêu cầu ngày càng cao, nhất là đối với nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế – xã hội ở vùng đồng bào có đạo trên cả nước nói chung và trên địa bàn các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng. Điều đó đòi hỏi phát huy tổng hợp các nguồn lực, trong đó nguồn lực tôn giáo xác định là nguồn lực xã hội quan trọng tham gia giữ vững ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn.
2. Thực trạng về nguồn lực tôn giáo ở các tỉnh Bắc Trung Bộ tham gia bảo vệ ổn định chính trị – xã hội
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/06/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, Đảng đã có chủ trương phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước. Đây là một chủ trương nhất quán, lâu dài, trong đó các tổ chức tôn giáo chính là nguồn lực thực hiện tốt chủ trương này. Tại Đại hội đại biểu XI của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng”2. Do vậy, những năm qua, việc phát huy nguồn lực tôn giáo chính là tạo điều kiện cho tôn giáo được đóng góp nhiều hơn cho xã hội, ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đến xã hội. Đặc biệt là việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hoạt động tôn giáo, quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách về tôn giáo của Đảng, Nhà nước, như: Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Theo đó, hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, quy định về phát huy nguồn lực tôn giáo đã ngày càng chú trọng và phù hợp hơn với điều kiện, đặc điểm từng địa bàn; chẳng hạn như tạo điều kiện để chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ tôn giáo tham gia vào các tổ chức chính trị – xã hội các cấp, như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,…
Khu vực Bắc Trung Bộ có nhiều tôn giáo lớn và hoạt động của tôn giáo đa phần nằm ở các địa phương, nằm trong hệ thống chính trị cơ sở các cấp, đặc biệt vùng đồng bào tôn giáo. Trong cơ chế phối hợp được thực hiện giữa các tổ chức tôn giáo và hệ thống chính trị và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ban, ngành trung ương với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và lực lượng vũ trang, đặc biệt là Công an và Bộ đội Biên phòng địa phương đã thúc đẩy việc phát huy nguồn lực tôn giáo tham gia giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở Bắc Trung Bộ.
Trong quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương đều gắn với kế hoạch chung của cả nước về chính sách hỗ trợ đất ở và đất sản xuất cho đồng bào dân tộc, vùng có đạo; về công tác định canh, định cư, về phát triển văn hóa, y tế, giáo dục trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng bào tôn giáo khó khăn, các xã, bản nghèo. Kết quả thực hiện các chương trình kinh tế – xã hội đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đồng bào nói chung, đồng bào các tôn giáo nói riêng, góp phần ổn định chính trị – xã hội, làm cho đồng bào an tâm, đoàn kết xây dựng đời sống “tốt đời, đẹp đạo”. Một bộ phận đồng bào dân tộc, tôn giáo được giao đất ở, đất sản xuất; được hướng dẫn kỹ thuật, được vay vốn, nhận các điều kiện hỗ trợ cần thiết để sản xuất, tăng thu nhập; tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, góp phần giữ vững ổn định tình hình xã hội vùng đồng bào có đạo.
Công tác hướng dẫn, vận động đồng bào tôn giáo cũng như chức sắc, chức việc, nhà tu hành đã có sự cải thiện rõ rệt; đồng thời, công tác tôn giáo và phát huy nguồn lực được thực hiện có hiệu quả, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo không ngừng được nâng lên, kinh tế – xã hội phát triển, quốc phòng – an ninh được giữ vững, dân chủ xã hội chủ nghĩa không ngừng phát huy. Việc xã hội hóa công tác an sinh xã hội vừa giảm bớt gánh nặng về ngân sách của Nhà nước, vừa tạo môi trường gắn kết giữa các dân tộc ở Bắc Trung Bộ.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, việc tham gia giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở Bắc Trung Bộ của các nguồn lực tôn giáo vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập nảy sinh từ hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Một số văn bản pháp luật có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp với thực tiễn, không bảo đảm tính khả thi. Đặc biệt là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 chỉ quy định hoạt động tôn giáo trong các lĩnh vực xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo. Đây là những thế mạnh của tôn giáo nhưng lại chưa có quy định cụ thể về các hoạt động khác, như: phát triển kinh tế, tham gia xây dựng hệ thống chính trị.
Hiện nay, tình trạng sử dụng không đúng người, đúng việc vừa không mang lại hiệu quả công việc, vừa ảnh hưởng đến tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo vẫn xảy ra, một phần trách nhiệm là do chưa thường xuyên kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ ở các ngành để có kế hoạch sử dụng hợp lý. Điều này cũng gây ra cho nhiều bất cập cho các cơ quan quản lý về công tác tôn giáo, nhất là tình trạng để chức sắc, tu sĩ các tôn giáo đến địa phương tự do mua bán đất đai, xây dựng cơ sở trái phép, thậm chí tự ý thành lập cơ sở thờ tự, cùng với đó, sử dụng mạng xã hội để kích động và đưa ra những luận điệu xuyên tạc, hành vi cố tình phá hoại chính sách tôn giáo của Việt Nam.
3. Đề xuất một số giải pháp
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật và điều kiện để nguồn lực tôn giáo tham gia giữ vững ổn định chính trị – xã hội.
Đây là giải pháp quan trọng, tạo ra những điều kiện thuận lợi, thông thoáng để khơi dậy và phát huy vai trò nguồn lực tôn giáo trong phát triển bền vững đất nước nói chung và trong giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở Bắc Trung Bộ nói riêng. Qua việc tham gia trên các lĩnh vực của đất nước sẽ nhằm góp phần giúp cho các hoạt động tôn giáo nói chung, hoạt động xã hội của các tôn giáo nói riêng diễn ra thuận lợi, khẳng định được vai trò, cộng đồng trách nhiệm và sự sẻ chia của tôn giáo đối với những vấn đề khó khăn của đất nước, cộng đồng và xã hội trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, cần kiến nghị với Đảng và Nhà nước ban hành các chính sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức tôn giáo, từ trách nhiệm, quyền hạn, tổ chức đến hoạt động, kiểm tra, giám sát và phản biện các chính sách liên quan đến vấn đề ổn định chính trị – xã hội. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng của việc phát huy vai trò của nguồn lực tôn giáo tham gia xây dựng hệ thống chính trị các cấp ở Bắc Trung Bộ hiện nay.
Tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng, không chỉ đảm bảo yêu cầu về hoạt động tôn giáo mà còn bảo đảm quản lý và thực hiện tốt các hoạt động liên quan nguồn lực, nhất là thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước để thực hiện các hoạt động xã hội. Tăng cường phối hợp công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh các hoạt động bảo đảm tuân thủ pháp luật; đồng thời, ngăn chặn, xử lý các cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng hình thành trái pháp luật; không để chức sắc, tu sĩ các tôn giáo đến địa phương mua bán đất đai, xây dựng cơ sở trái phép, tự ý thành lập cơ sở thờ tự, lợi dụng mạng xã hội để có những luận điệu xuyên tạc hay hành vi cố tình xuyên tạc, phá hoại chính sách tôn giáo của Việt Nam.
Nhà nước cần phải rà soát, điều chỉnh bổ sung các cơ chế, chính sách, pháp luật để bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của đồng bào tôn giáo trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh, đối ngoại… trong điều kiện mới. Có chính sách phát triển kinh tế – xã hội phù hợp với đặc điểm về văn hóa, tôn giáo trên từng địa bàn. Đây là một trong những yếu tố quan trọng quyết định tính bền vững của công tác tôn giáo và là cơ sở để bảo đảm phát huy nguồn lực tôn giáo tham gia giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở Bắc Trung Bộ. Đồng thời, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách thúc đẩy mạnh mẽ việc xã hội hóa công tác an sinh xã hội, huy động mọi nguồn lực trong xã hội góp phần cùng các cơ quan nhà nước chăm lo nhiệm vụ an sinh xã hội, đẩy lùi khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các địa phương.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, bổ sung, sửa đổi các nội dung có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong các luật chuyên ngành, trong đó có Luật Đất đai, để thống nhất, đồng bộ với Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và tạo hành lang pháp lý trong việc quản lý các hoạt động tôn giáo. Cần có quy định xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo cụ thể về việc mua bán, chuyển nhượng, lấn chiếm đất đai và vi phạm xây dựng các công trình tôn giáo. Đây là những vấn đề tiềm ẩn những nguy cơ phức tạp về an ninh chính chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nếu Nhà nước và chính quyền địa phương không có những quy định cụ thể để xử lý những vi phạm trên.
Hai là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các ban, ngành và chính quyền địa phương với các tổ chức tôn giáo.
Các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị – xã hội và lực lượng vũ trang cần tăng cường hơn nữa sự định hướng và phối hợp với các tổ chức tôn giáo trong các hoạt động xã hội, bảo đảm các hoạt động đúng đường hướng hành đạo, tôn chỉ, mục đích, hiến chương, nội quy tôn giáo, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và quy định, pháp luật của Nhà nước.
Phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ sở tôn giáo để kịp thời hướng dẫn, định hướng hoạt động theo đúng quy định. Qua đó, hướng dẫn, hỗ trợ về chuyên môn, thực hiện chính sách của Nhà nước và địa phương trong thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, phòng, chống các tệ nạn xã hội, góp phần thúc đẩy việc xây dựng nếp sống văn hóa, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn.
Chính quyền, Mặt trận các cấp cần thông tin kịp thời đến các tổ chức tôn giáo tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thực hiện các nội dung, mục tiêu giữ vững ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn để các cá nhân và tổ chức tôn giáo chủ động thực hiện. Các ngành chức năng: Giáo dục, Y tế, Văn hóa, Thông tin, Tôn giáo, Công an… thường xuyên tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các tổ chức tôn giáo trên địa bàn. Các ngành chức năng cần có kế hoạch giúp đỡ và hướng dẫn tổ chức tôn giáo về các mặt: tuyên truyền, giáo dục, vận động thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền định hướng thông tin; đào tạo giáo viên, ngành nghề, tạo điều kiện về việc làm; xây dựng cơ sở vật chất,… tạo điều kiện cho các tôn giáo phát huy vai trò góp phần vào sự phát triển bền vững ở địa phương.
Ba là, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị vùng đồng bào tôn giáo và phẩm chất đạo đức, năng lực cán bộ làm công tác tôn giáo trên địa bàn.
Đây là giải pháp đóng vai trò quan trọng, góp phần củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị vùng đồng bào tôn giáo, từ đó tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn đối với việc phát huy nguồn lực tôn giáo trong giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở Bắc Trung Bộ. Trong đó, cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo ở vùng đồng bào tôn giáo. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; phẩm chất đạo đức; sự nhiệt tình và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo đóng vai trò then chốt đến hiệu quả thực hiện phát huy vai trò nguồn lực tôn giáo. Vì đây là lực lượng nòng cốt trong quá trình phổ biến và thực thi các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Cần quan tâm đến việc sử dụng, bố trí, bổ nhiệm, điều động cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo phù hợp; quan tâm, ưu tiên đối với những người có năng lực, trình độ, kinh nghiệm và nhiệt huyết với phương châm vì việc mà bố trí con người; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, chính sách ưu đãi và tuyển chọn lực lượng cán bộ kế cận, đáp ứng với yêu cầu và được đồng bào tôn giáo tin tưởng, nghe theo.
Bốn là, phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào tôn giáo.
Đây là giải pháp quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện ở Bắc Trung Bộ, được Đảng xác định: “Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được nhà nước bảo hộ. Thực hiện tốt chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của đồng bào các tôn giáo”3.
Phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân, gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao trình độ dân trí sẽ làm cho đồng bào tôn giáo tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, xã hội và bản thân chính người dân. Điều này sẽ không có sự gia tăng đột biến các hiện tượng tôn giáo mới, cực đoan, kẻ thù ít có cơ hội mua chuộc lợi dụng. Đây chính là cơ sở làm cho công tác tôn giáo của Đảng có hiệu quả bền vững. Theo đó, các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ đều hướng đến mục tiêu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân, trong đó có đồng bào có đạo, coi đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tôn giáo.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo, tạo môi trường thuận lợi cho các tôn giáo phát huy ưu thế của mình đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, phát huy vai trò của các lực lượng vũ trang có ý nghĩa to lớn, phát huy tính chủ động, tích cực, ý thức trách nhiệm của tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của các tôn giáo là việc làm hết sức cần thiết.
4. Kết luận
Vấn đề nguồn lực tôn giáo đã được Đảng nhận thức ngày càng đầy đủ, khoa học và phù hợp với thực tiễn đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Qua đó, đã phát huy các nguồn lực tôn giáo trong xây dựng đất nước. Để phát huy có hiệu quả các nguồn lực của các tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các chủ thể phát huy phải nhìn nhận khách quan những tác động của tôn giáo đối với xã hội, từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các tổ chức, các lực lượng; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các ban, ngành và chính quyền địa phương với các tổ chức tôn giáo; phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào tôn giáo; có chính sách, pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo sử dụng các nguồn lực của mình tham gia vào các hoạt động phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Cùng với đó, thường xuyên cảnh giác đấu tranh với các quan điểm, hành vi lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nước ta. Có như vậy, mới tạo lập được các mối quan hệ hài hòa và đồng thuận xã hội, là động lực mạnh mẽ cho việc tập hợp, phát huy sức mạnh, nguồn lực của Nhân dân vào công cuộc phát triển đất nước.
Chú thích:
1. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03/11/2022 về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXBChính trị quốc gia – Sự thật, tr. 81.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 123.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2003). Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo.
2. Bộ Chính trị (2018). Chỉ thị số 18-CT/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) ngày 12/03/2003 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. H. NXB Sự thật.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
5. Nguyễn Khắc Đức (chủ biên, 2022). Phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Lý luận chính trị.
6. Quốc hội (2024). Luật Đất đai năm 2024.
7. Quốc hội (2016). Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
8. Vũ Chiến Thắng (2020). Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát huy nguồn lực tôn giáo trong quá trình xây dựng và phát triển bền vững đất nước hiện nay. Đề tài cấp bộ, Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội.