TS. Trần Quốc Việt
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
(Quanlynhanuoc.vn) – Sau 25 năm đổi mới (1986 – 2011) và đến nay, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội và Hội nghị Trung ương. Thực hiện chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, toàn diện hơn vào kinh tế khu vực và quốc tế, đã tạo tiền đề, động lực quan trọng cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Với những kết quả quan trọng đạt được đó đã góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế đất nước và phù hợp với xu thế vận động chung của thế giới và khu vực.
Từ khóa: Sự lãnh đạo của Đảng; hội nhập quốc tế; kinh tế quốc tế; thành tựu; Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Trong những năm 2011 – 2020, hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều đột phá, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút vốn nước ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đến năm 2020, Việt Nam được “71 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường”1; đồng thời, đã tham gia và có quan hệ tốt đẹp với nhiều tổ chức, cơ chế hợp tác kinh tế. Điều đó, chứng tỏ Việt Nam đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu, là một mắt xích trong chuỗi cung ứng quốc tế. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu đã chuyển sang cân bằng xuất, nhập khẩu, thậm chí là có xuất siêu, với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 545,32 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP vào năm 2020. Đến nay, quy mô xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 nền kinh tế xuất khẩu hàng hóa hàng đầu thế giới.
Từ năm 2021 đến quý I/2025, Đảng ta đã đưa hội nhập quốc tế trở thành chiến lược trọng điểm trên các phương diện: chiến lược đối ngoại mới toàn diện, hệ thống; mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường đối ngoại Đảng; vai trò tích cực trên trường đa phương; thành tích kinh tế – xuất khẩu – thu hút FDI vượt bậc; ổn định quốc phòng – an ninh; các chuyến thăm lịch sử nâng tầm đối ngoại. Tất cả được triển khai dưới hệ thống chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Tổng Bí thư, vận hành theo tinh thần đổi mới sáng tạo và hội nhập sâu rộng2. Những thành tựu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển đất nước và góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Quan điểm và chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó xác định rõ mục tiêu và những nhiệm vụ chủ yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là sự cụ thể hóa quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Đại hội X của Đảng (4/2006) chủ trương việc cần chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việc bổ sung cụm từ “tích cực”, thể hiện sự quyết tâm hội nhập kinh tế quốc tế với tinh thần không chỉ chủ động mà còn phải tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế “phải là ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, toàn dân, của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và toàn xã hội”3. Tiếp đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007, chỉ ra những cơ hội và thách thức đặt ra khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và khẳng định: “Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn”4. Nhận thức này thể hiện tư duy mới của Đảng, cần phải tranh thủ tối đa yếu tố ngoại lực để bổ sung cho nội lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước khi nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
Đại hội XI của Đảng (tháng 01/2011), đánh dấu bước phát triển mới trong chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế khi khẳng định: “…đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh…”5. Như vậy, việc nêu rõ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng, một mặt, thể hiện Đảng đã hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc, mặt khác, khẳng địnhlợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ quan điểm phát triển của Việt Nam là: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”6. Trong bối cảnh hòa bình, hợp tác cùng phát triển và toàn cầu hóa là xu thế phát triển của thời đại, trước tiên là độc lập, tự chủ về kinh tế. Độc lập, tự chủ về kinh tế, tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Quá trình thực hiện chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế trong thực tiễn cho thấy những bước tiến trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới của Việt Nam song song với việc chủ động, tích cực đổi mới bên trong.
Tại Đại hội XII của Đảng (tháng 01/2016), khẳng định quan điểm: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”7 và chủ trương “đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế” và “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”8. Đại hội xác định mục tiêu cao nhất của hội nhập kinh tế quốc tế là bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế là bình đẳng và cùng có lợi. Trong 5 năm (2016 – 2020), hội nhập kinh tế quốc tế tập trung vào triển khai các cam kết đã ký kết. Điểm nổi bật trong công tác đối ngoại đa phương được Đảng chỉ ra là phải chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia” vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, cùng với việc phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương. Trên cơ sở đó, Việt Nam chủ động đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia tích cực trong các hoạt động của ASEAN và Liên hiệp quốc.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) họp và ra Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới khẳng định “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia – dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”9.
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại, hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại – quốc phòng – an ninh và phát triển kinh tế – xã hội, khẳng định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả…”10.
Trải qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI, XII, XIII, nhận thức rõ chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn, thể hiện ở một số điểm sau:
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Mọi hoạt động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đều phải bảo đảm, quán triệt nguyên tắc đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Hai là, để đạt được hiệu quả trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Ba là, Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới trên cơ sở sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy cùng bạn bè quốc tế vì mục tiêu hoà bình, hợp tác, ổn định và phát triển cùng có lợi.
Bốn là, Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế với tinh thần chủ động và tích cực và theo lộ trình cụ thể, dựa trên thực tiễn của đất nước và xu thế phát triển củ thời đại.
Năm là, hội nhập kinh tế quốc tế là định hướng chiến lược lớn trong quá trình phát triển đất nước, công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sáu là, phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Đối ngoại không chỉ “phục vụ phát triển” mà còn góp phần trực tiếp vào củng cố độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia. Nhấn mạnh xây dựng ngoại giao toàn diện, hiện đại, trong đó kết hợp hài hòa: Đối ngoại Đảng; Ngoại giao Nhà nước; Ngoại giao nhân dân phù hợp bối cảnh hội nhập quốc tế mới.
3. Một số thành tựu của quá trình hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng
Từ Đại hội VI (1986), Đảng xác định chủ trương Đổi mới toàn diện, trong đó hội nhập quốc tế là một nội dung chiến lược gắn liền với phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao vị thế đất nước. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã từng bước trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế gần 40 năm đổi mới đất nước đạt nhiều kết quả tương đối toàn diện, có ý nghĩa quan trọng, góp phần phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế sâu rộng, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Việt Nam tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, gia nhập ASEAN (1995), WTO (2007) và ký kết 15 FTA thế hệ mới, như CPTPP, EVFTA, RCEP… Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong giai đoạn 2001-2020 đạt ở mức khá đạt 6,74%, trong đó, giai đoạn 2001 – 2010 đạt 7,26% và giai đoạn đoạn 2011 – 2020 chỉ đạt 6,21%. Năm 2020, tăng trưởng kinh tế đạt 2,91% tuy là mức tăng trưởng thấp nhất trong giai đoạn 2011 – 2020, bởi tác động của dịch Covid-19 nhưng so sánh với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, kết quả tăng trưởng của Việt Nam thuộc số ít các nước có tăng trưởng dương trong năm 2020. Đây là một nỗ lực rất lớn của người dân và cả hệ thống chính trị trong thời gian đại dịch, nhiều chuỗi cung ứng bị đứt gẫy, thương mại quốc tế giảm sút. Tăng trưởng kinh tế ấn tượng: từ nước nghèo, thu nhập bình quân gần100 USD/người (năm 1986), đến năm 2023 đạt 4.300 – 4.700 USD/người11.
Thứ hai, mở rộng và nâng tầm quan hệ đối ngoại đa phương, song phương.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng chủ trương: Việt Nam là đối tác tin cậy với các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Về quan hệ kinh tế đa phương: năm 2007, sau 11 năm đàm phán, Việt Nam gia nhập vào WTO, chính thức hội nhập vào kinh tế toàn cầu, thể hiện cam kết mở cửa, hội nhập và cải cách kinh tế mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước, Nhân dân Việt Nam. Việc trở thành thành viên WTO có tác động lớn đến kinh tế Việt Nam từ năm 2007 đến nay, tạo ra những chuyển biến tích cực, đồng thời, đối mặt với thách thức lớn. Gia nhập WTO, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để tái cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế cạnh tranh của đất nước. ASEAN là đối tác xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam. Đây là thị trường cung cấp hàng hóa nhập khẩu lớn thứ ba vào Việt Nam (sau Trung Quốc và Hàn Quốc). Bên cạnh đó, nhiều lợi thế cạnh tranh đến từ giá nhân công, vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam trở thành điểm đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp ASEAN.
Về quan hệ kinh tế song phương với một số đối tác, nhất là trên lĩnh vực thương mại. Hiện nay, Việt Nam hiết lập quan hệ ngoại giao với 190+ quốc gia, trong đó có 33 đối tác chiến lược và toàn diện (Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU…), là thành viên chủ động trong nhiều tổ chức quốc tế: ASEAN, APEC, ASEM, WTO, UNESCO, ILO…. Đảm nhiệm tốt vai trò: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc (2008 – 2009, 2020 – 2021), Chủ tịch ASEAN (2020), Hội đồng Nhân quyền (2023 – 2025)… Với phương châm này, Việt Nam gửi thông điệp đến thế giới: Việt Nam là một bộ phận trong cộng đồng quốc tế, nền kinh tế Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế thế giới, Việt Nam muốn là bạn, đối tác với tất cả các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Thứ ba, củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được củng cố trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam được thiết lập, củng cố, ngày càng đi vào thực chất.
(1) Quan hệ đối tác của Việt Nam nâng cao cả về số lượng và cấp độ quan hệ, gồm: tổng số 16 đối tác chiến lược, 13 đối tác toàn diện với các nước trên nhiều khu vực, châu lục, trên thế giới. Cụ thể:
Đối tác chiến lược: “Nga (năm 2001); Ấn Độ (năm 2007); Trung Quốc (năm 2008) và 13 đối tác chiến lược, gồm: Nhật Bản và Tây Ban Nha (năm 2009); Anh (năm 2010); Đức (năm 2011); I-ta-li-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po, Pháp (năm 2013); Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin (năm 2015); Ô-xtrây-li-a (năm 2018); Niu Di-lân (năm 2020)”.
Đối tác toàn diện: “Việt Nam có quan hệ đối tác toàn diện với 13 quốc gia, gồm: Nam Phi (năm 2004); Chi-lê, Bra-xin, Vê-nê-xu-ê-la (năm 2007); Ác-hen-ti-na (năm 2010); U-crai-na (năm 2011); Mỹ, Đan Mạch (năm 2013); Mi-an-ma, Ca-na-đa (năm 2017); Hung-ga-ri (năm 2018); Bru-nây, Hà Lan (năm 2019)”12.
(2) Kết hợp chặt chẽ chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, Việt Nam đã có quan hệ với hầu hết các quốc gia là thành viên của Liên hiệp quốc, với toàn bộ các nước là thường trực Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, nhóm G7 và toàn bộ các thành viên của ASEAN. Đảng có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, Quốc hội có quan hệ với hơn 140 quốc hội và nghị viện các nước. Có hơn 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài được thiết lập trong những năm 2001 – 2020.
(3) Việt Nam thiết lập và có quan hệ kinh tế – thương mại với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, có quan hệ kinh tế thương mại với 170 quốc gia, xuất khẩu hàng hóa với trên 230 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã ký kết gần 100 Hiệp định thương mại song phương, trên 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần… và tham gia 15 FTA, trong đó, có các FTA thế hệ mới như: CPTPP, EVFTA.
(4) Đại hội XIII là bước ngoặt nâng tầm tư duy hội nhập quốc tế của Việt Nam từ “mở cửa” sang “chủ động, tích cực, sâu rộng, hiệu quả và bền vững”, gắn chặt với tầm nhìn chiến lược đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045; phát triển nội lực – củng cố đối ngoại; xây dựng quốc gia hùng cường, có vị thế trong chuỗi giá trị và hệ thống toàn cầu. Đây là nền tảng lý luận – chính trị quan trọng giúp Việt Nam tiếp tục củng cố vị thế trên trường quốc tế trong thời đại mới.
Thứ tư, hội nhập quốc phòng – an ninh bảo đảm độc lập, chủ quyền, văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Việt Nam đã chuyển từ thế bị bao vây sang chủ động hội nhập toàn cầu, từng bước tham gia vào “cuộc chơi lớn” của kinh tế – chính trị thế giới. Hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng là một thành tựu chiến lược, toàn diện, góp phần củng cố: Độc lập dân tộc – phát triển bền vững; vị thế, uy tín quốc gia được nâng cao; Lòng tin của Nhân dân và bạn bè quốc tế được củng cố. Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng – an ninh, hợp tác với hơn 80 quốc gia. Tham gia tích cực vào lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc từ năm 2014 đến nay. Tăng cường an ninh biên giới, biển đảo, xây dựng lòng tin chiến lược với các nước láng giềng và đối tác lớn.
Trong quá trình hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn hóa Việt Nam được quảng bá toàn cầu, nhiều di sản được UNESCO công nhận (Truyện Kiều, Nhã nhạc cung đình, Ca trù, hội Gióng…). Trao đổi giáo dục – du học – học bổng quốc tế, hợp tác với các đại học hàng đầu thế giới được nâng lên. Các mạng lưới khoa học, đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ (trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ, AI…) được triển khai và tham gia sâu rộng. Sau 10 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã thu hút hơn 22 nghìn dự án FDI, với tổng vốn đăng ký gần 300 tỷ USD. Nhiều đối tác đầu tư quan trọng như: Hàn Quốc (chiếm 18,1% tổng vốn đầu tư), Nhật Bản (15,5%), và Singapore (13,2%). Trong đó, “Đặc biệt năm 2020, Việt Nam lọt vào tốp 20 quốc gia thu hút nhiều FDI nhất trên thế giới, đứng vị trí thứ 19 – tăng 5 bậc so với năm 2019”13. Năm 2019, Việt Nam thu hút FDI đạt 64 tỷ USD, đầu tư từ Trung Quốc tăng gần 1,65 lần, Hồng Kông tăng 2,4 lần so với cùng kỳ 201814. Năm 2020, mặc dù gặp khó khăn do ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19, song Việt Nam tiếp tục thu hút đầu tư FDI với tổng số vốn đăng ký là 28,530 tỷ USD15. Hơn 450 tỷ USD vốn FDI đăng ký tính đến 2024; các tập đoàn lớn (Samsung, Intel, LG…) đầu tư quy mô lớn vào Việt Nam16.
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đa phương và song phương trong kỷ nguyên mới
Quan hệ kinh tế đa phương và song phương trong kỷ nguyên mới không chỉ là “mở cửa thị trường”mà còn là “mở rộng không gian phát triển, nâng tầm vị thế quốc gia”. Giải pháp hiệu quả phải gắn kết chặt giữa đối ngoại – nội lực – cải cách thể chế – phát triển bền vững, đặt trong bối cảnh quốc tế hóa cạnh tranh ngày càng gay gắt. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, đòi hỏi tầm nhìn chiến lược và sự đồng bộ từ trung ương đến địa phương, doanh nghiệp và người dân.
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thể chế là nền tảng của mọi hoạt động kinh tế – xã hội. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, yêu cầu hoàn thiện thể chế càng trở nên cấp thiết để bảo đảm sự tương thích giữa luật pháp trong nước với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Việc hoàn thiện thể chế không chỉ dừng lại ở sửa đổi, bổ sung luật pháp mà còn bao gồm việc xây dựng các quy định minh bạch, dễ thực thi và có tính ổn định. Thể chế cần tạo ra “sân chơi” bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích đầu tư và đổi mới sáng tạo. Thực tiễn cho thấy, nhiều rào cản về thủ tục hành chính, giấy phép con, quản lý chồng chéo… đang làm giảm hiệu quả hội nhập và cạnh tranh của doanh nghiệp Việt. Do đó, cần có chỉ đạo đồng bộ từ trung ương đến địa phương trong việc cải cách thể chế, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính sách và luật pháp.
Hai là, nâng cấp và làm sâu sắc các quan hệ đối tác kinh tế song phương.
Việc nâng cấp và làm sâu sắc quan hệ kinh tế song phương không chỉ là điều kiện để mở rộng thị trường mà còn là nền tảng để Việt Nam chuyển sang giai đoạn hội nhập chất lượng cao, củng cố vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là “đòn bẩy kép” – vừa giúp đa dạng hóa rủi ro, vừa định vị Việt Nam là đối tác tin cậy, hấp dẫn và có trách nhiệm trong cộng đồng kinh tế quốc tế. Tận dụng tốt các khuôn khổ đối tác chiến lược toàn diện (với Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU…) để thu hút FDI chất lượng cao. Đẩy mạnh đối thoại kinh tế – thương mại song phương để tháo gỡ rào cản kỹ thuật, mở rộng thị trường. Thúc đẩy các dự án đầu tư chiến lược trong hạ tầng, công nghệ cao, năng lượng sạch.
Ba là, tham gia tích cực và hiệu quả vào các cơ chế kinh tế đa phương.
Việc tham gia tích cực và hiệu quả vào các cơ chế kinh tế đa phương là con đường tất yếu để Việt Nam nhằm khẳng định vai trò, vị thế và trách nhiệm quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia trong trật tự kinh tế toàn cầu, thúc đẩy phát triển bền vững, tự chủ và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị quốc tế. Đây không chỉ là giải pháp “đối ngoại” mà còn là công cụ chiến lược để nâng cao năng lực nội tại của quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa thế hệ mới. Do vậy, phát huy vai trò trong các tổ chức như: ASEAN, APEC, WTO, RCEP, IPEF nhằm tạo dựng vị thế và bảo vệ lợi ích quốc gia. Chủ động đề xuất sáng kiến, tham gia thiết lập luật chơi mới về thương mại, thuế tối thiểu toàn cầu, chuyển đổi xanh… Nâng cao hiệu quả đoàn đàm phán, hội nhập gắn với thực thi và giám sát cam kết FTA,…
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập.
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là cuộc chơi của hàng hóa và dịch vụ, mà còn là cuộc đua về chất lượng nguồn nhân lực. Lực lượng lao động của Việt Nam hiện còn hạn chế về kỹ năng mềm, ngoại ngữ, kiến thức pháp lý quốc tế và năng lực thích ứng với thị trường toàn cầu. Đặc biệt, khu vực công -nhất là đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách và thực thi cam kết quốc tế – cần được đào tạo bài bản, có khả năng phân tích chính sách, đàm phán quốc tế và xử lý các tranh chấp thương mại. Nâng cao chất lượng giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; đồng thời, có chiến lược bồi dưỡng cán bộ chiến lược về hội nhập, là một trong những đòi hỏi cấp bách.
Năm là, thúc đẩy khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu của tăng trưởng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam vẫn đang là quốc gia gia công, phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu và có hàm lượng chất xám thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tỷ lệ đầu tư cho R&D còn thấp, mối liên kết giữa viện -trường – doanh nghiệp còn yếu. Việc thúc đẩy khoa học – công nghệ không chỉ là nâng cấp công nghệ sản xuất mà còn là tạo ra năng lực cạnh tranh nội tại, nâng tầm vị thế Việt Nam trên bản đồ kinh tế toàn cầu.
Sáu là, tăng cường sự lãnh đạo toàn diện, nhất quán của Đảng trong hội nhập.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thành công của tiến trình hội nhập. Tuy nhiên, một số cấp ủy, tổ chức Đảng ở địa phương và đơn vị sự nghiệp công lập còn coi nhẹ vai trò của hội nhập hoặc lúng túng trong việc cụ thể hóa chủ trương lớn của Trung ương. Công tác tổng kết thực tiễn, xây dựng nghị quyết chuyên đề, chỉ đạo xuyên suốt hội nhập chưa đáp ứng yêu cầu nhanh – chính xác – hiệu quả trong bối cảnh toàn cầu biến động. Cần nâng cao vai trò chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của Đảng trong triển khai chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm mọi chủ trương được cụ thể hóa thành hành động thực tế và có tác động rõ ràng.
5. Kết luận
Trên cơ sở đánh giá bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước, gần 40 năm đổi mới đất nước, Đảng đã có nhiều đổi mới quan trọng trong nhận thức, tư duy về đối ngoại nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ giai đoạn 2001 – 2020 và đến nay đã đạt nhiều kết quả tương đối toàn diện, có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh mới, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước thì những kết quả hội nhập kinh tế quốc tế trong nhiều năm qua thực sự tạo cơ sở để Đảng ta tiếp tục hoàn thiện chủ trương hội nhập quốc tế trong thời gian tới. Qua đó, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Chú thích:
1. Vũ Văn Hiền (2019). Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 90.
2. Thành tựu đối ngoại của Việt Nam và dấu ấn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.https://baoquocte.vn/thanh-tuu-doi-ngoai-cua-viet-nam-va-dau-an-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-235967.html#google_vignette
3. Nguyễn Phú Trọng (2008). Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 263.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018). Văn kiện Đảng Toàn tập. Tập 66. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 25.
5, 6, 7, 8, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới Phần II (X, XI, XII). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 435, 505, 689, 661, 158
9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) (2016). Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Các nghị quyết của Trung ương Đảng (2016 – 2021). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 9.
12. Đặng Đình Quý (2023). Mười năm triển khai Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị “về hội nhập quốc tế”: Nhìn lại để hướng tới tương lai. Tạp chí Cộng sản, số 1014, tr. 26 – 34.
13, 14, 15. Tổng cục Thống kê (2021). Niêm giám thông kê 2020. H. NXB Thống kê, tr. 9, 609, 31.
16. 15 năm gia nhập WTO: Việt Nam khẳng định vị thế hội nhập.https://trungtamwto.vn/file/21519/5-15-nam-wto.pdf, truy cập ngày 20/3/2024.