Bảo đảm động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới

NCS. Nguyễn Minh Lý
Học viện Hành chính và Quản trị công

(Quanlynhanuoc.vn) – Động lực làm việc của cán bộ, công chức cấp cơ sở, trong đó bao gồm công chức phường là một yếu tố quan trọng góp phần trực tiếp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền địa phương. Tại TP. Hồ Chí Minh, thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường là một trong những vấn đề ngày càng được chú trọng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay với nhiều xu hướng, yêu cầu mới. Trên cơ sở nhìn nhận khái lược về động lực làm việc, bài viết hướng tới phân tích những thách thức, đồng thời, kiến nghị các vấn đề cần quan tâm để thúc đẩy tiếp tục động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh hiện nay.

T khóa: Động lực làm việc, thúc đẩy động lực làm việc, công chức phường, bối cảnh mới.

1. Đặt vấn đề

Trong bất kỳ tổ chức nào, động lực làm việc (work motivation) được xem là một yếu tố quan trọng có tác động đáng kể đến hiệu suất làm việc của người lao động nói riêng, đến hiệu quả hoạt động của toàn bộ tổ chức nói chung. Đối với hệ thống tổ chức thuộc khu vực công, đây không phải là ngoại lệ. Thúc đẩy động lực làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền các cấp sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả thực thi công vụ của mỗi nhân sự, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của toàn hệ thống. Do đó, động lực làm việc và tạo động lực làm việc cho cán bộ, công chức, trong đó bao gồm công chức phường là vấn đề nhận được ngày càng nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà quản lý khu vực công.

Động lực làm việc của người lao động trong tổ chức nói chung chịu sự chi phối, ảnh hưởng trực tiếp của bối cảnh cụ thể. Điều này cũng không ngoại lệ đối với động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Do đó, việc phân tích bối cảnh cụ thể và sự tác động của bối cảnh cụ thể đó tới động lực làm việc của đội ngũ quan trọng này là hết sức cần thiết, tạo cơ sở cho việc xác định các giải pháp tiếp tục thúc đẩy động lực làm việc của nhân sự hướng tới hiệu lực, hiệu quả quản lý chung của toàn bộ máy.

Trong số những yếu tố tác động tới động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố hiện nay, có thể đề cập tới một số xu hướng chủ đạo mang tính thời cuộc, như: cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy và sắp xếp đơn vị hành chính các cấp; bối cảnh đáp ứng yêu cầu đột phá phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; bối cảnh hội nhập quốc tế; xu hướng vận dụng các giá trị chuẩn mực, hiện đại trong quản trị công vào hoạt động quản lý công chức phường… Trên cơ sở phân tích bối cảnh cụ thể, việc xác định các yêu cầu và giải pháp tương ứng nhằm thúc đẩy động lực làm việc của đối tượng quan trọng này là hết sức cần thiết.

2. Khái lược về động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

2.1. Khái quát về tình hình động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố

Tại Việt Nam, động lực làm việc của công chức phường ngày càng được quan tâm nhiều hơn nhưng đa phần được xem xét chung trong tổ hợp của nhóm đối tượng ở phạm vi rộng hơn động lực làm việc của cán bộ, công chức cấp xã/hoặc của công chức cấp xã.

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các định nghĩa về các thuật ngữ liên quan, trong phạm vi bài viết này, “động lực làm việc của công chức phường” được hiểu như một khái niệm dùng để chỉsự thúc đẩy công chức phường làm việc một cách tự nguyện với sự hứng thú, sẵn sàng, nỗ lực, hài lòng và cam kết cao hơn nhằm hướng tới đạt được mục tiêu quản lý nhà nước của chính quyền địa phương với hiệu quả, hiệu suất cao hơn, hướng tới sự phát triển và lợi ích chung của toàn xã hội.

Để có sự nhìn nhận khách quan về tình hình động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, một khảo sát về vấn đề này đã tác giả được tiến hành thông qua phỏng vấn sâu và khảo sát bằng bảng hỏi. 600 bảng hỏi được gửi đến đối tượng là công chức phường tại các quận/thành phố trực thuộc TP. Hồ Chí Minh, trong đó có 557 phiếu trả lời thu về có giá trị sử dụng.

Để khảo sát về mức độ động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố ở thời điểm nghiên cứu, một thang đo gồm 21 chỉ báo được xây dựng, gắn với 5 thang thành phần: Thang đo thành phần 1: thể hiện mức độ Hứng thú đối với công việc của công chức phường, bao gồm 5 chỉ báo; Thang đo thành phần 2: thể hiện mức độ Sẵn sàng tham gia công việc của công chức phường, bao gồm 5 chỉ báo (Moti.06 – Moti.10, tương ứng SS.01 – SS.05); Thang đo thành phần 3: thể hiện mức độ Nỗ lực thực hiện công việc của công chức phường, bao gồm 5 chỉ báo (Moti.11 – Moti.15, tương ứng NL.01 – NL.05); Thang đo thành phần 4: thể hiện mức độ Hài lòng về công việc của công chức phường, bao gồm 3 chỉ báo (Moti.16 – Moti.18, tương ứng HL.01 – HL.03); Thang đo thành phần 5: thể hiện mức độ Cam kết với tổ chức của công chức phường, bao gồm 3 chỉ báo (Moti.19 – Moti.21, tương ứng CK.01 – CK.03).

Thang đo đáp ứng các yêu cầu về độ tin cậy nội tại, chỉ số tương quan biến tổng (theo các lý thuyết của George & Mallery (2019); Nunnally (1978); Peter (1994); Pallant (2020)) để có thể được sử dụng để đo lường trong thực tế.

Kết quả xử lý dữ liệu bằng SPSS (2024) cho thấy, một số vấn đề liên quan sau:

(1) Về mức độ động lực làm việc của công chức phường.

Trị trung bình của các giá trị đo lường từ thang tổng (với 21 chỉ báo) là 3.07. Giá trị này cho thấy, trước hết công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh có động lực làm việc (vì trị số trung bình lớn hơn mức 3, tương ứng với mức độ động lực làm việc trung bình).

Tuy vậy, giá trị trên của thang tổng động lực làm việc cũng cho thấy vấn đề đáng quan tâm. Việc có động lực làm việc ở một mức độ nhất định của công chức phường trên địa bàn Thành phố là có thể khẳng định vì trị số trung bình của thang tổng là trên mức 3. Dù vậy, đây vẫn chưa phải là mức độ động lực làm việc như kỳ vọng (nếu không muốn nói là thấp so với kỳ vọng và rất “bấp bênh” vì mức vượt trội so với trị số trung bình là rất ít). Sự kỳ vọng ở đây xuất phát từ vai trò của động lực làm việc đối với hiệu quả thực thi công vụ của bản thân công chức phường. Đối với hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền Thành phố cũng như sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung. Mức độ động lực làm việc của công chức phường theo kết quả phân tích chưa phải là sự bảo đảm an tâm cho sự thúc đẩy hiệu quả làm việc của đội ngũ này, do đó cần tiếp tục được thúc đẩy.

Bên cạnh đó, khi xét giá trị trung bình của các thang đo thành phần, yếu tố cần được quan tâm đặc biệt chính là mức độ Nỗ lực thực hiện công việc (yếu tố này chỉ đạt giá trị trung bình là 2,80, dưới mức trung bình). Thang mức độ Nỗ lực thực hiện công việc cũng ghi nhận sự xuất hiện của chỉ báo có giá trị trung bình gần thấp nhất trong tổng số 21 chỉ báo (biến Moti.15 – NL.05 – “Tôi luôn nỗ lực hết mình để hoàn thành công việc của mình bất kể khó khăn”, trị trung bình 2.14).

(2) Về tương quan giữa các yếu tố trong động lực làm việc của công chức phường.

Kết quả phân tích dữ liệu cho thấy, giá trị trung bình của thang đo tương ứng với từng yếu tố đều không cao (nếu không muốn nói là thấp so với kỳ vọng), giao động từ 2.80 – 3.21; thang thành phần có trị số trung bình cao nhất là thang thể hiện sự Hứng thú đối với công việc của công chức phường (thang HT), có giá trị trung bình là 3.21; thang thành phần có giá trị trung bình thấp nhất là thang thể hiện sự Nỗ lực thực hiện công việc, có trị số trung bình là 2.80; thang có độ chênh lệch trị trung bình giữa biến nội bộ cao nhất là thang về sự Sẵn sàng tham gia công việc của công chức phường (thang SS); thang thành phần duy nhất có giá trị trung bình của các biến đều trên mức 3 (mức trung bình) là thang thể hiện mức độ Hài lòng về công việc (thang HL).

(3) Về tương quan mức độ động lực làm việc giữa các nhóm công chức phường.

Kết quả xử lý dữ liệu khi so sánh tương quan về mức độ động lực làm việc giữa các nhóm công chức phường trên địa bàn Thành phố dựa trên một số tiêu chí sau: tiêu chí về độ tuổi; tiêu chí về giới tính; tiêu chí về chức danh, chức vụ.

– Dựa theo tiêu chí về độ tuổi: mức độ động lực làm việc thể hiện xu hướng giảm dần theo các nhóm độ tuổi sau: nhóm từ 40 đến dưới 50 tuổi; nhóm từ 60 tuổi trở lên; nhóm từ 30 đến dưới 40 tuổi; nhóm dưới 30 tuổi; nhóm từ 50 đến dưới 60 tuổi.

– Dựa theo tiêu chí về giới tính: phân tích dữ liệu cho thấy mức độ động lực làm việc của nhóm công chức phường có giới tính nam (trị trung bình 3.14) được thể hiện cao hơn so với nhóm công chức phường có giới tính nữ (trị trung bình 3.02).

– Dựa theo tiêu chí về chức danh, chức vụ: mức độ động lực làm việc trung bình của nhóm công chức lãnh đạo quản lý cao hơn so với nhóm công chức phường giữ các chức danh chuyên môn, nghiệp vụ; dù vậy, sự chênh lệch không thực sự đáng kể (trị trung bình 3.10 so với 3.06).

2.2. Khái quát về xu hướng tác động của một số yếu tố truyền thống đến động lực làm việc của công chức phường

Nghiên cứu đã được triển khai đồng thời xác định sơ bộ về xu hướng tác động của một số yếu tố truyền thống đến động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Theo đó: (1) Nhóm yếu tố tác động theo hướng làm giảm động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố bao gồm: yếu tố đặc điểm công việc; yếu tố tiền lương. (2) Nhóm yếu tố tác động theo hướng không thực sự rõ ràng đến động lực làm việc của  công chức phường trên địa bàn Thành phố bao gồm yếu tố đào tạo, bồi dưỡng. (3) Nhóm yếu tố tác động theo hướng làm tăng động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố, bao gồm: yếu tố công nhận, khen thưởng; yếu tố giá trị chuẩn mực nghề nghiệp khu vực công; yếu tố lãnh đạo trực tiếp.

Bên cạnh đó, các yếu tố đặc thù (như đặc thù về áp lực dân số; đặc thù về thay đổi cơ chế quản lý; đặc thù về vị thế kinh tế – xã hội của Thành phố) cũng có sự tác động nhất định đến động lực làm việc của đối tượng quan trọng này.

3. Xu hướng tác động của bối cảnh mới và yêu cầu đặt ra cho công tác thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

3.1. Nhìn nhận về xu hướng tác động của bối cảnh mới đối với động lực làm việc của công chức phường

Bên cạnh những yếu tố tác động cơ bản đã được phân tích, bối cảnh hiện tại tiếp tục đặt ra những yếu tố có thể tác động đến động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố theo những xu hướng khác nhau.

(1) Bi cnh cách mng tinh gn t chc b máy, sp xếp đơn v hành chính các cp.

Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là cơ sở bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Đối với công chức phường, sự thay đổi của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương có thể tác động nhất định đến động lực làm việc theo các xu hướng khác nhau.

Tại Việt Nam, ngày 25/10/2027, Ban chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Qua hơn 7 năm thực hiện, cuối năm 2024, trong bài viết định hướng “tinh – gọn – mạnh – hiệu năng – hiệu lực – hiệu quả”. Tổng Bí thư Tô Lâm nhận định toàn hệ thống đã đạt được “một số kết quả quan trọng, bước đầu tạo chuyển biến tích cực trong đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy”, tuy nhiên, xuất phát từ một số nguyên nhân, “cho đến nay tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn nhiều cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ,…”, nhấn mạnh cần khẩn trương thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị với các nhiệm vụ trọng tâm như: xây dựng, tổ chức thực hiện trong toàn hệ thống chính trị Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới; gắn tinh gọn tổ chức bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hoá các chức danh,…

Đồng thời, công tác chuẩn bị cho việc triển khai tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp cũng được tiến hành; theo đó dự kiến sau khi chính thức tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (gồm cấp tỉnh và cấp xã), 90/99 nhiệm vụ vốn thuộc về cấp huyện trước thời điểm ngày 01/7/2025 sẽ được chuyển về cho cấp xã; 9 nhiệm vụ còn lại chuyển lên cấp tỉnh thực hiện.

Trong Báo cáo kết quả thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị TP. Hồ Chí Minh (Báo cáo số 824-BC/TU ngày 31/3/2025), Thành ủy TP. Hồ Chí Minh tổng kết các kết quả đáng ghi nhận đã đạt được trong công cuộc cải tổ tại địa phương. Theo đó, sau sắp xếp, UBND Thành phố giảm từ 21 cơ quan chuyên môn còn 15 cơ quan chuyên môn và Sở An toàn thực phẩm thí điểm thành lập theo Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội; giảm từ 35 đơn vị còn 32 đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND Thành phố; công tác sắp xếp các đơn vị xã, phường, thị trấn đạt nhiều kết quả khả quan, trong giai đoạn 2023 – 2025, Thành phố đã hoàn thành việc sắp xếp 80 phường thuộc 10 quận (sau sắp xếp giảm 39 đơn vị, Thành phố còn 273 phường, xã, thị trấn) [15].

Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của TP. Hồ Chí Minh mới (bao gồm: tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tỉnh Bình Dương và TP. Hồ Chí Minh) được triển khai quyết liệt nhằm bảo đảm sau sắp xếp, TP. Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc trung ương, tổ chức thực hiện hiệu quả mô hình chính quyền hai cấp phù hợp với Hiến pháp (sửa đổi); Lut T chc chính quyn địa phương (sửa đổi); phát huy tiềm năng và lợi thế, phấn đấu là một cực tăng trưởng mới của cả nước và vùng Đông Nam Bộ trong thời gian sắp tới. Dự kiến, TP. Hồ Chí Minh mới sau sắp xếp có diện tích tự nhiên là 6.772,65 km2, quy mô dân số 13.706.632 người, 168 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 113 phường, 54 xã và 01 đặc khu). Chính quyền địa phương, đơn vị hành chính cấp xã (mới) hoàn thành xong việc sắp xếp tổ chức bộ máy và chính thức đi vào hoạt động chậm nhất là ngày 15/8/2025.

Bối cảnh cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính đang diễn ra mạnh mẽ tại TP. Hồ Chí Minh có khả năng tác động mạnh mẽ và phức tạp đến động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố. Xét về trung và dài hạn, thành quả của định hướng khoa học, đúng đắn này chắc chắn sẽ tác động tích cực đến động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố. Dù vậy, ở thời điểm trước mắt, sự thay đổi nhanh, mạnh mẽ, quyết liệt của công cuộc cải cách không loại trừ khả năng có sự trăn trở, áp lực, ảnh hưởng ở mức độ nhất định của một bộ phận công chức phường trên địa bàn. Do đó, việc kịp thời quán triệt chủ trương, nắm bắt tâm tư nguyện vọng để bảo đảm động lực làm việc của công chức phường là rất cần thiết.

(2) Bi cnh đáp ng yêu cu đột phá phát trin khoa hc – công ngh, đổi mi sáng to và chuyn đổi s quc gia.

Trong bối cảnh sâu rộng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc đột phá phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là một yêu cầu cấp thiết của thời đại, đòi hỏi phải được quan tâm, định hướng rõ ràng. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 khẳng định, “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để đất nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc”; đồng thời, xác định tầm nhìn đến năm 2045, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.

Thống kê có liên quan cho thấy tỷ trọng kinh tế số của Thành phố tiếp tục tăng theo các năm: năm 2021 là 15,38%; năm 2022 là 18,66%; năm 2023 là 21,5%; Thành phố đồng thời là trung tâm thương mại điện tử lớn nhất cả nước với tốc độ tăng trưởng bình quân 20%/năm; tiếp tục đẩy mạnh khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế – xã hội,… Các số liệu cho thấy, vai trò đặc biệt cũng như nỗ lực của TP. Hồ Chí Minh trong bối cảnh chuyển đổi số của cả nước.

Với trọng tâm định hướng tại Nghị quyết số 57-NQ/TW, TP. Hồ Chí Minh tiếp tục được kỳ vọng phát huy vai trò của địa phương phát triển hàng đầu về khoa học – công nghệ và chuyển đổi số. Trong bối cảnh gắn kết với sự tinh gọn hệ thống tổ chức bộ máy và sắp xếp lại đơn vị hành chính các cấp, vai trò này vừa khẳng định tầm quan trọng của đội ngũ công chức phường trên địa bàn Thành phố, nhưng ở mức độ nhất định cũng có thể tạo ra áp lực nhất định, ảnh hưởng đến động lực làm việc của đội ngũ này. Việc quán triệt định hướng, tăng cường công tác bồi dưỡng năng lực số và cơ chế thúc đẩy đổi mới, sáng tạo cùng sự bảo đảm trang thiết bị công nghệ hiện đại,… là cần thiết để bảo đảm động lực làm việc của đội ngũ quan trọng này trong thời gian sắp tới.

(3) Bi cnh hi nhp quc tế ca c nước và vùng kinh tế trng đim.

Hội nhập quốc tế là một vấn đề nhận được sự quan tâm, đầu tư của toàn hệ thống chính trị. Để phát huy các thành quả đã đạt được sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, khắc phục khó khăn, hạn chế và tranh thủ tối đa cơ hội, vượt qua thách thức mà những chuyển biến nhanh, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực đặt ra, đồng thời đáp ứng yêu cầu cấp bách về triển khai hội nhập quốc tế đồng bộ, chủ động, tích cực, toàn diện, sâu rộng, chất lượng và hiệu quả hơn để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Nghị quyết số 59-NQ/TW xác định rõ mục tiêu tổng quát là “Nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ, toàn diện, sâu rộng của hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần thiết thực xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Tranh thủ tối đa các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát triển nhanh, bền vững; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; không ngừng cải thiện toàn diện đời sống nhân dân, vì hạnh phúc của Nhân dân, giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia; nâng cao vai trò, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước. Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong bối cảnh hiện tại, TP. Hồ Chí Minh được nhận định là “đầu tàu” trong đối ngoại, hội nhập quốc tế của cả nước và vùng trọng điểm phía Nam; công tác đối ngoại của Thành phố đã vượt ra ngoài khuôn khổ địa phương, không chỉ đóng góp cho sự phát triển của Thành phố mà còn tác động lan toả rộng rãi sang các địa phương khác và góp phần vào những thành tựu chung của đất nước với nhiều dấu ấn nổi bật. Định hướng trong thời gian tới [12]. Thành phố đồng thời đã xây dựng và ban hành Chiến lược nâng tầm đối ngoại đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với nhiều nội dung định hướng quan trọng.

Gắn với vị thế, trách nhiệm trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của vùng và cả nước, TP. Hồ Chí Minh đang đối diện với những thời cơ lẫn thách thức mới trong bối cảnh hội nhập. Để tiếp tục khẳng định vị thế và bảo đảm thực hiện tốt trách nhiệm to lớn này, nguồn nhân lực khu vực công trên địa bàn Thành phố có vai trò quan trọng. Trong đó, đội ngũ công chức phường sắp tới sẽ càng có nhiều cơ hội khẳng định vai trò đặc biệt trong bối cảnh này, cùng với đó là những áp lực và yêu cầu nỗ lực cao để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Sự đan xen giữa vận hội và thách thức có thể tạo sự tác động nhiều chiều lên động lực làm việc của công chức phường, do đó cần được quan tâm và nắm bắt kịp thời, trên cơ sở đó, áp dụng các biện pháp thúc đẩy động lực làm việc phù hợp.

(4) S vn dng nhng giá tr chun mc, hin đại trong qun tr công vào hot động qun lý công chc phường.

Bối cảnh hội nhập, cải cách đang diễn ra sâu rộng trong toàn hệ thống chính trị đồng hành với sự vận dụng ngày càng phổ biến, linh hoạt những giá trị hiện đại trong quản trị công vào công tác quản lý cán bộ, công chức nói chung, trong đó có thể kể đến việc tham khảo các mô hình quản trị hiện đại, hay bắt đầu nghiên cứu áp dụng công cụ quản lý như KPI trong đánh giá công chức (việc sử dụng KPI trong đánh giá cán bộ, công chức đã được đề cập chính thức tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội (khoá XV), diễn ra từ ngày 05/5/2025 và bế mạc vào ngày 27/6/2025. Là một bộ phận quan trọng trong tổng thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung, công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh sẽ chịu những sự tác động từ xu hướng vận dụng này, từ đó ảnh hưởng nhất định đến động lực làm việc, do đó cần được nghiên cứu, phân tích thêm.

Bên cạnh những xu hướng trên, thực tiễn liên tục đặt ra những yếu tố có khả năng tác động đến động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh theo nhiều chiều hướng và mức độ khác nhau. Việc dự đoán và liên tục nắm bắt thực trạng động lực làm việc và các yếu tố ảnh hưởng này giữ vai trò tạo cơ sở quan trọng cho việc thiết lập hệ thống chính sách thúc đẩy động lực làm việc của đội ngũ công chức phường trên địa bàn Thành phố, do đó rất cần thiết được quan tâm đúng mức.

3.2. Một số yêu cầu đặt ra cho công tác thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường

Để bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố, thiết nghĩ cần quan tâm tới một số yêu cầu sau đối với công tác quan trọng này:

Thứ nhất, luôn dành sự quan tâm, chú trọng thích đáng cho công tác bảo đảm, thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố, đặc biệt trong bối cảnh mới với các công cuộc mang tính chất bản lề như cải cách tinh gọn tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính các cấp; hội nhập quốc tế sâu rộng; thúc đẩy sự phát triển khoa học công nghệ,… đang diễn ra sâu rộng, khẩn trương.

Thứ hai, cần tiếp tục đa dạng các hình thức, biện pháp thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố, bảo đảm sự phù hợp với tình hình trong bối cảnh mới.

Thứ ba, cần chú trọng tính đặc thù của các nhóm giải pháp thúc đẩy động lực làm việc cho các nhóm công chức phường khác nhau ở các tiêu chí như độ tuổi, giới tính, vị trí việc làm, thâm niên,…

Thứ tư, cần phát huy tối đa vai trò của các chủ thể liên quan trong thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố.

4. Một số kiến nghị

Một là, tiếp tục quán triệt mạnh mẽ tầm quan trọng của việc bảo đảm, thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố trong bối cảnh Thành phố đang cùng cả nước khẩn trương triển khai công cuộc cải cách đồng bộ, toàn diện; khẳng định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng để giúp ổn định đội ngũ cũng như hiệu lực, hiệu quả quản lý trong bối cảnh chuyển đổi.

Việc quán triệt có thể được thực hiện thông qua nhiều cách thức, như hội nghị quán triệt đến lãnh đạo quản lý các cấp và toàn thể nhân sự liên quan (bao gồm công chức phường); các văn bản; các hội thảo/toạ đàm chuyên đề;…

Hai là, có cơ chế thông tin rõ ràng, thông suốt giữa các cấp chính quyền tại Thành phố, bảo đảm công chức phường nắm được các thông tin về các công tác cụ thể như sắp xếp tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, yêu cầu tăng cường khoa học – công nghệ, tăng cường hội nhập quốc tế,… một cách đầy đủ, kịp thời, từ đó, bảo đảm sự an tâm công tác và sẵn sàng đón nhận thời cơ, vận hội mới với tâm thế chủ động, tích cực nhất.

Ba là, tiếp tục bảo đảm tính ổn định, đa dạng của các biện pháp thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố, bao gồm: phát huy tối đa vai trò của yếu tố tiền lương (bao gồm thu nhập tăng thêm gắn với cơ chế đặc thù tại Thành phố), của yếu tố lãnh đạo trực tiếp, yếu tố đào tạo, bồi dưỡng, yếu tố giá trị chuẩn mực nghề nghiệp khu vực công,…

Bốn là, có giải pháp để hạn chế sự tác động theo hướng làm giảm động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố, trong đó bao gồm việc giảm áp lực công việc của công chức phường thông qua việc cải tiến quy trình, thủ tục, đặc biệt là phát huy vai trò hỗ trợ của khoa học công nghệ.

Năm là, phát huy tối đa vai trò của các chủ thể có thể thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố. Trong đó, cần đặc biệt lưu ý vai trò của lãnh đạo trực tiếp của công chức phường trong việc thường xuyên nắm bắt tâm lý và động viên kịp thời đối với các công chức phường tại đơn vị quản lý.

Sáu là, áp dụng các giải pháp đặc thù đối với các nhóm công chức phường khác nhau về độ tuổi/thâm niên, về giới tính, về chức vụ/chức danh để bảo đảm hiệu quả tối ưu của các giải pháp bảo đảm và thúc đẩy động lực làm việc.

 5. Kết luận

Phân tích sơ bộ cho thấy bối cảnh mới với những công cuộc mang tính chất bản lề như cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, thúc đẩy khoa học công nghệ, thúc đẩy hội nhập quốc tế, áp dụng tiêu chuẩn quản lý hiện đại đối với cán bộ, công chức,… đang đặt ra các vấn đề liên quan tới động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn cả nước đang khẩn trương thực hiện công cuộc cải cách, việc bảo đảm và thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố là hết sức quan trọng đối với bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền tại địa phương, do đó, cần đáp ứng những yêu cầu cụ thể.

Trong phạm vi nghiên cứu, tham luận đã phân tích sơ lược về bối cảnh mới với những xu hướng cụ thể đang được triển khai quyết liệt, khẩn trương tại TP. Hồ Chí Minh trong không khí chung của cả nước, đồng thời có sự nhìn nhận về thực trạng động lực làm việc của công chức phường trên địa bàn Thành phố cũng như xác định các yêu cầu cơ bản đặc ra cho công tác thúc đẩy động lực làm việc của đội ngũ quan trọng này. Do các xu hướng tác động vẫn cần tiếp tục có thêm thời gian để được thể hiện rõ ràng, do đó, các phân tích chủ yếu vẫn mang tính chất khái quát và cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn; dù vậy vẫn có ý nghĩa nhất định trong việc dự báo xu hướng và khẳng định sự quan tâm đặc biệt đối với vấn đề. Các kiến nghị cũng được đề xuất nhằm góp phần ổn định và thúc đẩy động lực làm việc của công chức phường tại TP. Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó tiếp tục bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền Thành phố ở giai đoạn hiện tại và trong thời gian sắp tới.

Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
3. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XII) một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
4. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Kết luận số 126-KL/TW ngày 14/02/2025 về một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tin gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025.
5. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Kết luận số 128-KL/TW ngày 07/3/2025 về chủ trương công tác cán bộ.
6. Chính phủ (2021). Nghị định số 33/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại TP. Hồ Chí Minh.
7. Đảng ủy Bộ Ngoại giao (2025). Hướng dẫn số 23-HD/ĐUB-CSĐN ngày 28/3/2025 về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
11. Nguyễn Thị Hồng Hải (2013). Giáo trình Động lực làm việc trong tổ chức hành chính nhà nước. H. NXB Lao động.
12. Thành ủy TP. Hồ Chí Minh (2025). Báo cáo số 824-BC/TU ngày 31/3/2025 về kết quả thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị TP. Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Trang Thu (2013). Tạo động lực làm việc cho người lao động trong tổ chức. H. NXB Giáo dục Việt Nam.
14. Uỷ ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2025). Đề án số 3021/ĐA-UBND ngày 29/4/2025 về sắp xếp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tỉnh Bình Dương và TP. Hồ Chí Minh.