Liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị để phát triển nông nghiệp bền vững ở thành phố Hà Nội

Nguyễn Hải Biên
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị có vai trò quan trọng đối với phát triển nông nghiệp bền vững. Thời gian qua, thành phố Hà Nội đã triển khai mạnh mẽ các hoạt động liên kết sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị nên đã mang lại hiệu quả tốt, song vẫn còn có một số hạn chế, bất cập. Bài viết đề xuất một số hàm ý nhằm nâng cao hiệu quả liên kết sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới, phù hợp với xu hướng phát triển nông nghiệp bền vững ở Thành phố Hà Nội

Từ khóa: Chuỗi giá trị; liên kết; phát triển; nông nghiệp bền vững; thành phố Hà Nội.

1. Đặt vấn đề

Liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp là một phương pháp kết nối các giai đoạn khác nhau của quy trình sản xuất nông sản từ khâu sản xuất, thu hoạch, chế biến, đóng gói, vận chuyển và tiêu thụ. Mục tiêu của liên kết chuỗi giá trị là tối ưu hóa giá trị gia tăng trong từng bước của quá trình, giúp nâng cao hiệu suất và lợi nhuận cho các nhà sản xuất nông sản và các đối tác tham gia khác trong chuỗi giá trị. Điều này có thể tạo ra lợi ích cho tất cả các bên liên quan và cải thiện hiệu suất tổng thể của ngành nông nghiệp.

Việc kết nối các bước trong chuỗi giá trị nông sản giúp tối ưu hóa giá trị gia tăng tại từng giai đoạn, từ sản xuất đến tiêu thụ giúp nâng cao thu nhập cho nông dân và người tham gia khác trong quá trình sản xuất. Liên kết chuỗi giá trị giúp giảm thiểu lãng phí trong quá trình sản xuất, chế biến và vận chuyển, tiết kiệm tài nguyên và giảm tác động tiêu cực đối với môi trường. Các bước liên kết trong chuỗi giá trị cho phép kiểm soát chất lượng nông sản và thúc đẩy sự tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường. Liên kết giữa các ngành công nghiệp trong chuỗi giá trị giúp nông dân và nhà sản xuất thích nghi với biến đổi khí hậu, thị trường và thay đổi tập quán sản xuất nhỏ lẻ, canh tác tự do. Liên kết chuỗi giá trị tạo cơ hội cho các doanh nghiệp và cộng đồng địa phương phát triển bền vững, tạo việc làm và nâng cao đời sống dân cư trong khu vực nông nghiệp. Sản xuất theo chuỗi giá trị làm thay đổi cách thức quản lý nền nông nghiệp theo hướng gắn với nhu cầu thị trường, sản xuất theo kế hoạch dựa trên các dự báo về nhu cầu thị trường. Như vậy, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị rất cần thiết để phát triển nông nghiệp bền vững ở mỗi quốc gia và từng địa phương.

2. Thực trạng liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị ở thành phố Hà Nội 

Thời gian qua, Hà Nội đẩy mạnh phát triển các mô hình liên kết theo chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ nông sản. Sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị liên kết trở thành hướng đi bền vững giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp. Tổ chức liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị bước đầu mang lại hiệu quả cho người sản xuất và lợi ích cho người tiêu dùng khi mua được những sản phẩm đúng chất lượng, giá trị, rõ ràng về quy trình sản xuất, bảo quản, chế biến. Việc liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo hợp đồng một cách nghiêm túc là tiền đề bảo đảm cho các chủ thể tham gia trong chuỗi giá trị chia sẻ quyền lợi, trách nhiệm và đầu tư có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường nói chung và trong lĩnh vực kinh doanh nông sản nói riêng. Hiện nay, có ba hình thức liên kết chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp: liên kết tiêu thụ sản phẩm qua hợp đồng giữa doanh nghiệp với nông hộ; liên kết có hỗ trợ đầu tư và tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông hộ; liên kết theo chuỗi giá trị khép kín.

Năm 2021, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị ở Hà Nội chỉ có 145 chuỗi, có 14 chuỗi liên kết từ cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất, thu hoạch, sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; 1 chuỗi liên kết cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; 46 chuỗi liên kết tổ chức sản xuất, thu hoạch gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; 2 chuỗi liên kết cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất, thu hoạch gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; 54 chuỗi liên kết cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất, thu hoạch gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; 7 chuỗi liên kết cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và 21 chuỗi liên kết sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp2

Đến cuối năm 2023, Hà Nội đã phát triển được 159/1.449 chuỗi liên kết của cả nước, chiếm gần 11%, trong đó có 53 chuỗi sản phẩm có nguồn gốc động vật, 106 chuỗi sản phẩm có nguồn gốc thực vật. Tính đến tháng 12/2024, Hà Nội đã phát triển và duy trì 170 chuỗi giá trị nông sản, bao gồm 56 chuỗi có nguồn gốc động vật và 114 chuỗi có nguồn gốc thực vật. Các chuỗi đã thu hút được nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại, hộ nông dân và đã đem lại hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập cho người sản xuất, góp phần thiết thực vào phát triển kinh tế – xã hội khu vực nông thôn, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn3

Tuy nhiên, trong liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị vẫn tồn tại những hạn chế:

Thứ nhất, việc ban hành cơ chế, chính sách, trong đó có các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị có nội dung triển khai chưa hiệu quả và còn tồn tại bất cập.

Thứ hai, người sản xuất nông nghiệp của thành phố hiện chưa thực sự coi trọng liên kết nhóm hộ mà vẫn sản xuất tự phát, quản trị sản phẩm còn đơn giản, chưa biết cách thông tin về quy trình sản xuất ra sản phẩm. Trong khi đó, các doanh nghiệp chế biến tiêu thụ sản phẩm thường yêu cầu ổn định về số lượng, chất lượng, không ký hợp đồng với từng nông hộ mà phải là nhóm hộ, hợp tác xã hay các trang trại lớn. Cá biệt, còn tình trạng hộ tự ý phá vỡ liên kết khi giá sản phẩm tăng mạnh, tự bán ra bên ngoài cho các tư thương dẫn đến chưa tạo được tính bền vững trong sản xuất nông nghiệp, thiếu niềm tin của doanh nghiệp liên kết khi một số bộ phận nông dân còn chạy theo lợi ích trước mắt.

Thứ ba, tính rủi ro của nông nghiệp lớn trong khi tiếp cận các chính sách hỗ trợ khó khăn nên các doanh nghiệp trung gian phân phối chưa mặn mà đầu tư. Mối quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp và người sản xuất chưa bền vững do chưa có cơ chế chia sẻ lợi nhuận, rủi ro, chủ yếu vẫn liên kết theo hình thức giống như tư thương. Sản phẩm khi qua nhiều khâu trung gian phân phối, dẫn đến giá bán bị đội lên cao hơn nhiều so với giá thu mua tại cơ sở sản xuất, sức cạnh tranh chưa cao, chưa chiếm được lòng tin của người tiêu dùng.

Thứ tư, thị trường chưa được minh bạch, vẫn còn trà trộn giữa sản phẩm sạch với sản phẩm không an toàn, không rõ nguồn gốc. Việc giới thiệu rõ sự khác biệt từ quy trình sản xuất, sơ chế, đóng gói, chế biến của sản phẩm chưa được thực sự quan tâm; cung cấp thông tin hai chiều giữa người sản xuất và người tiêu dùng thông qua kênh bán lẻ để từ đó tác động ngược lại quá trình ở tất cả các khâu từ sản xuất, sơ chế, đóng gói đến chế biến, tạo ra sản phẩm chất lượng, giá bán hợp lý đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. 

Thứ năm, người tiêu dùng thiếu các thông tin về sản phẩm, nhất là sự khác biệt giữa sản phẩm sạch, an toàn và sản phẩm chưa an toàn, hầu hết chỉ quan tâm đến đến yếu tố giá cả, chưa biết cách nhận diện thương hiệu, các địa chỉ cơ sở sản xuất uy tín.

3. Một số đề xuất

Một là, tiếp tục làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các chủ thể về liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị và phát triển nông nghiệp bền vững là góp phần nâng cao nhận thức của người dân. Nội dung thông tin tuyên truyền các nghị quyết, quy hoạch, quy định, kế hoạch, cơ chế, chính sách và những văn bản đối với các mặt hàng nông sản cụ thể về liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; làm tốt công tác truyền thông quảng bá trên các phương tiện thông tin truyền thông về gương điển hình tiên tiến, các mô hình làm tốt để doanh nghiệp, hợp tác xã, người sản xuất, người tiêu thụ và các tầng lớp nhân dân tham quan, học tập; tích cực tuyên truyền cho nông dân quyền lợi, trách nhiệm, lợi ích của các chủ thể tham gia chuỗi giá trị; tuyên truyền về sản xuất nông nghiệp an toàn và bảo vệ môi trường sinh thái…

Hai là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách. Đây là vấn đề tạo cơ sở để liên kết sản xuất nông nghiệp được thuận lợi. Hà Nội cần hoàn thiện chính sách ưu đãi để hỗ trợ các tác nhân tham gia chuỗi liên kết, đặc biệt là chủ chuỗi liên kết được vay vốn đầu tư hạ tầng cơ sở vật chất, ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật mới đáp ứng thực tiễn của sản xuất và nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý và chính sách hỗ trợ theo hướng rà soát, tổng hợp những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; sửa đổi, bổ sung những nội dung còn thiếu và những nội dung chưa phù hợp nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách để thu hút sự tham gia mạnh mẽ hơn của các doanh nghiệp và hợp tác xã vào phát triển liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp.

Ba là, ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Đổi mới ứng dụng khoa học – công nghệ được coi là một trong những giải pháp then chốt, trọng tâm. Ứng dụng khoa học – công nghệ giúp nông dân chủ động trong sản xuất, khắc phục được tính mùa vụ, giảm sự lệ thuộc vào thời tiết, khí hậu, đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng nông sản… Cần nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ, như: công nghệ sinh học, công nghệ nhà kính, công nghệ tưới nhỏ giọt, công nghệ cảm biến, tự động hóa, internet vạn vật… trong sản xuất, sơ chế, đóng gói, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nhằm gia tăng giá trị; từ đó, tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, hạ giá thành và nâng cao chất lượng nông sản, bảo vệ môi trường. Đồng thời thực hiện rộng rãi việc đăng ký và quản lý mã số vùng sản xuất và ứng dụng đồng bộ các công nghệ, kỹ thuật mới để vượt qua rào cản kỹ thuật của các thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng trong nước và xuất khẩu.

Bốn là, phát huy vai trò của các chủ thể trong chuỗi giá trị. Đây là giải pháp nhằm đẩy mạnh thiết lập hệ sinh thái quản trị bền vững chuỗi giá trị. Các cấp ủy, chính quyền cấp xã cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, chỉ đạo rà soát các vùng sản xuất theo quy hoạch, tổng hợp danh sách nhu cầu liên kết trên địa bàn cấp huyện, như: quy mô, diện tích, thực trạng sản xuất, sản lượng, thị trường tiêu thụ, vai trò của hợp tác xã. Phát huy vai trò của hợp tác xã nông nghiệp (hợp tác xã chuyên ngành) để làm đầu mối tiếp nhận ứng dụng kỹ thuật mới và chuyển giao cho các thành viên hợp tác xã, chịu trách nhiệm cùng hợp tác xã hướng dẫn thành viên trong sản xuất, thu hoạch sơ chế và bảo quản để có sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của đơn vị phân phối tiêu thụ. Đơn vị phân phối, tiêu thụ sản phẩm cần làm tốt công tác dự báo thị trường tiêu thụ, yêu cầu rõ về số lượng, chất lượng, mẫu mã bao bì sản phẩm để làm cơ sở cho đơn vị chuyển giao; hợp tác xã và người sản xuất áp dụng với công nghệ phù hợp và giá thành hợp lý, tạo ra sản phẩm chất lượng nhất để tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Cơ quan chức năng cần tiếp tục tham mưu trình cấp thẩm quyền ban hành chính sách hỗ trợ, giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai hỗ trợ phát triển nông nghiệp theo chuỗi liên kết. 

Năm là, quan tâm thị trường đầu ra của nông sản. Đây là nội dung rất quan trọng để liên kết bền vững. Trên cơ sở đó hình thành, phát triển và mở rộng quy mô các trang trại, nhà máy chế biến tạo động lực thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp và nông hộ theo hướng dài hạn. Quản trị và điều hành hệ thống thông tin nhu cầu của thị trường để tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu của nhà phân phối với giá thành hợp lý và hiệu quả nhất, có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Đồng thời, cần làm tốt việc cung cấp thông tin, chăm sóc khách hàng và bảo vệ người tiêu dùng tin tưởng, ủng hộ sản phẩm nông nghiệp theo chuỗi giá trị.

Chú thích:

1. Hà Nội: Liên kết sản xuất, tiêu dùng bền vững ngành chế biến nông sản.https://kinhtedothi.vn/ha-noi-lien-ket-san-xuat-tieu-dung-ben-vung-nganh-che-bien-nong-san.html

2. Hà Nội mở rộng thị trường, đẩy mạnh kết nối nông, lâm, thủy sảnhttps://hanoimoi.vn/ha-noi-mo-rong-thi-truong-day-manh-ket-noi-nong-lam-thuy-san-685942.html

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 124.

2. Chuyển đổi số trong nông nghiệp để liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm.https://www.quanlynhanuoc.vn/2022/06/21/chuyen-doi-so-trong-nong-nghiep-de-lien-ket-san-xuat-voi-tieu-thu-san-pham/