ThS. Ngô Đặng Tuấn Anh
Phân hiệu Học viện Hành chính và Quản trị công tại TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Việt Nam đang ở giai đoạn cuối của cơ cấu dân số vàng và quá trình già hóa dân số đã bắt đầu từ những năm đầu của thập kỷ trước. Áp lực của việc già hóa dân số với sự phát triển kinh tế, cơ cấu dân số, an sinh xã hội… ngày một lớn. Việc biến những thách thức của già hóa dân số thành những cơ hội hay trước hết là sự thích ứng là một vấn đề cấp bách. Việc tìm ra những giải pháp mang tính căn cơ, tận dụng cơ cấu dân số già như một nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội đặt ra yêu cầu xây dựng chính sách tạo việc làm cho người lao động lớn tuổi nói chung và những người lao động sau nghỉ hưu là cần thiết.
Từ khóa: Già hóa dân số, tạo việc làm, người cao tuổi, người lao động nghỉ hưu.
1. Già hóa dân số tại Việt Nam
Theo Tổng cục Thống kê (2021), Việt Nam có khoảng 11,4 triệu người cao tuổi, chiếm khoảng 11,8% dân số. Từ năm 1989 đến năm 2019, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam liên tục tăng, từ 62,5 tuổi lên 73,6 tuổi (trên thế giới trung bình là 72 tuổi). Dự báo đến năm 2032, số người cao tuổi ở Việt Nam chiếm khoảng 17% và đến năm 2050 là 25% dân số. Đáng chú ý là có sự khác biệt khá rõ nét giữa tuổi thọ trung bình của người cao tuổi nam giới và nữ giới, trong đó, nam giới là 71,0 tuổi và nữ giới 76,3 tuổi.
Chỉ số già hóa dân số ở Việt Nam thể hiện cụ thể trong tỷ trọng của trẻ em dưới 15 tuổi giảm và tỷ trọng của dân số từ 60 tuổi trở lên tăng và có xu hướng tăng nhanh trong hai thập kỷ qua. Chỉ số già hóa năm 2019 là 48,8%, tăng 13,3 điểm phần trăm so với năm 2009 và tăng hơn hai lần so với năm 1999. Trong đó, đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là hai vùng có chỉ số già hóa cao nhất cả nước (tương ứng là 58,5% và là 57,4%). Tây Nguyên là nơi có chỉ số già hóa thấp nhất so với các vùng còn lại trên cả nước (28,1%). Bên cạnh đó, việc già hóa dân số ở Việt Nam còn biểu hiện thông qua những đặc điểm của quá trình này gồm: người cao tuổi tăng nhanh cả về số lượng và tỷ trọng; nhóm người cao tuổi tăng nhanh nhất so với các nhóm tuổi khác cả về số lượng và tỷ trọng; tuổi thọ người cao tuổi tăng lên nhưng tuổi thọ khỏe mạnh thấp; chênh lệch lớn trong cơ cấu giới tính người cao tuổi, nữ hóa dân số cao tuổi; già hóa dân số nhanh làm rút ngắn thời kỳ dân số vàng; chỉ số già hóa dân số không đồng đều giữa các tỉnh và vùng; tốc độ từ “già hóa” chuyển sang “già” nhanh chóng; già hóa dân số khi chưa phải là nước phát triển.
Theo Đỗ Văn Quân (2021), già hóa dân số đã tạo ra những thách thức to lớn đối với Việt Nam, như: già hóa dân số dẫn đến cấu trúc gia đình truyền thống thay đổi mạnh; già hóa dân số khiến thời gian sống sau nghỉ hưu tăng lên, làm gia tăng áp lực lên hệ thống an sinh xã hội, nhất là về y tế và hệ thống trợ cấp lương hưu; già hóa dân số tạo ra những thách thức trong phát triển kinh tế, nhất là về cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động giảm đi, cơ cấu nghề nghiệp sẽ thay đổi, gánh nặng kinh tế cho người lao động trẻ cũng cao hơn…; mô hình bệnh tật ở người cao tuổi thay đổi nhanh chóng; dân số già đến sớm trong khi nền kinh tế của đất nước đang trong thời kỳ thoát nghèo, người cao tuổi phải chịu nhiều gánh nặng bệnh tật, với chi phí y tế lớn và gây ra áp lực lớn đối với hệ thống y tế.
Già hóa dân số đang đặt ra yêu cầu thay đổi trong chính sách về tuổi nghỉ hưu, chính sách dành cho lao động cao tuổi… nhằm thu hút sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động này đối với phát triển kinh tế – xã hội. Đây thực sự là những thách thức không nhỏ với Việt Nam trong bối cảnh “già hóa dân số” nhanh chóng như hiện nay.
Việc đưa ra các giải pháp để thích ứng với già hóa dân số là cần thiết đối với quá trình ổn định và phát triển kinh tế bền vững, an sinh xã hội, như: thống nhất cách tiếp cận về già hóa dân số trong các nghiên cứu và xây dựng, quy hoạch chính sách dân số; nghiên cứu, sửa đổi, đồng bộ hóa các quy định giữa Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bình đẳng giới, Luật Người cao tuổi; tăng cường truyền thông giáo dục thay đổi hành vi, nâng cao nhận thức, tạo môi trường xã hội đồng thuận tham gia chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; xây dựng, phát triển phong trào chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; giải quyết đồng bộ các chính sách tăng trưởng, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội nhằm cải thiện thu nhập của người cao tuổi từ lao động và hưu trí; tăng cường chăm sóc sức khỏe, xây dựng và mở rộng các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi với sự tham gia tích cực, chủ động của mọi thành phần xã hội, nâng cao năng lực quốc gia về chăm sóc người cao tuổi; tăng cường vai trò và năng lực của các tổ chức chính trị – xã hội, chính trị – xã hội – nghề nghiệp trong việc xây dựng, vận động và thực hiện chính sách cho già hóa dân số và người cao tuổi; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia cho các nghiên cứu toàn diện về dân số cao tuổi (Đỗ Văn Quân, 2021).
Trong tất cả các giải pháp được nêu trên, giải pháp cơ bản để thích ứng với già hóa dân số và tạo ra hiệu quả tích cực với phát triển kinh tế – xã hội là tạo cơ hội việc làm cho người cao tuổi, người lao động sau khi nghỉ hưu, tập trung ở giai đoạn từ 60 tuổi – 70 tuổi.
2. Thực trạng nhu cầu tìm việc làm sau khi nghỉ hưu
Khảo sát ở nhiều người ở tuổi 60, những người mới nghỉ hưu vẫn còn có sức khỏe tốt và trình độ học vấn cao. Họ còn có thể sử dụng thời gian nhàn rỗi để tự hoàn thiện, củng cố sức khỏe, tham gia hoạt động xã hội. Một số người hưu trí có thể tham gia các hoạt động từ thiện, buôn bán và giảng dạy, tham gia dịch thuật, những người trợ giúp trong các bệnh viện hoặc trông giữ con cháu… Điều đó cho thấy, về mặt sức khỏe cơ bản và nhu cầu làm việc của người cao tuổi trong giai đoạn này là rất cao. Theo Tổng cục Thống kê (2021), trong 11,4 triệu người cao tuổi thì số người trong giai đoạn sơ lão là hơn 6,7 triệu người, chiếm 60,9%.
Ở nhiều nước trên thế giới, số lượng người nghỉ hưu tìm việc để trở lại thị trường lao động tăng qua từng năm. Tại Trung Quốc, công bố báo cáo nghiên cứu về hưu trí và việc làm của nhóm người cao tuổi; theo đó, 46,7% người cao tuổi quay lại thị trường việc làm để tìm kiếm giá trị cá nhân và xã hội; 19% người tìm việc hy vọng phát triển kỹ năng và tiếp tục theo đuổi phát triển nghề nghiệp; đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Tại Hàn Quốc, số lượng người lớn tuổi làm việc tăng lên tại Hàn Quốc đã tăng rõ rệt trong hai thập kỷ qua. Theo thống kê vào tháng 2/2003, có 1,85 triệu người lao động ở độ tuổi 60. Con số này đã tăng lên 2,73 triệu vào tháng 2/2013 và tăng hơn gấp đôi lên mốc 5,77 triệu vào 2023. Kết quả cuộc khảo sát của Statistics Korea thực hiện vào tháng 7/2022, tỷ lệ những người trong độ tuổi 55 – 79 muốn tiếp tục được làm việc là 68,5%, trung bình, họ muốn làm việc đến năm 73 tuổi. Trong đó, hơn một nửa số người đã nghỉ hưu được hỏi đi làm vì muốn trang trải chi phí sinh hoạt, trong khi 34,7% muốn đi làm vì còn đủ sức khỏe và tìm thấy niềm vui trong công việc.
Tại Mỹ, tình trạng người lao động đã nghỉ hưu quay lại tìm việc cũng tăng đáng kể. Theo Bộ Lao động Mỹ, tỷ lệ người trên 55 tuổi đang làm việc hoặc tìm việc đã tăng từ 38,4% lên 38,9% chỉ trong 6 tháng. Hơn 480 nghìn người trong độ tuổi này đã tham gia lực lượng lao động, cao hơn 180 nghìn người so với thời điểm trước khi đại dịch xảy ra. Theo thống kê của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cho biết, khoảng 2,6 triệu người đã nghỉ hưu sớm trong khoảng thời gian từ tháng 02/2020 – tháng 10/2021 nhưng hiện đã quay trở lại tìm việc.
Tại Việt Nam, chưa có một số liệu khảo sát cụ thể về tỷ lệ của người nghỉ hưu mong muốn tìm kiếm việc làm nhưng trên thực tế nhu cầu người nghỉ hưu tìm kiếm việc làm rất cao. Thực tế, người nghỉ hưu tham gia vào nhiều công việc khác nhau đúng hoặc không đúng với chuyên môn của mình ngày càng nhiều. Theo quy định, độ tuổi nghỉ hưu đối với nữ hiện nay là 55 tuổi và nam là 60 tuổi và đến năm 2028, độ tuổi nghỉ hưu đối với nữ là 60 tuổi và nam là 62 tuổi. Từ độ tuổi này trở lên khi tiếp tục tham gia lao động thì được coi là lao động cao tuổi. Tỷ lệ người lao động cao tuổi tiếp tục làm việc hiện rất cao, có tới 60% người cao tuổi trong độ tuổi 60 – 69 đang tiếp tục làm việc. Bên cạnh đó, theo Tổng cục Thống kê (2021), có khoảng 35% người cao tuổi vẫn đang làm việc.
Đồng thời, chính sách liên quan đến tạo việc làm cho người nghỉ hưu được thừa nhận trong Bộ luật Lao động năm 2019 với việc bảo đảm những quyền lợi tối thiểu về chế độ phúc lợi, chế độ làm việc với một số ngành nghề cụ thể và tất cả đều dựa trên sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, các chính sách đó là chưa toàn diện và chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động đối với người lao động sau nghỉ hưu.
Những lao động cao tuổi, bao gồm cả những người lao động đã nghỉ hưu tiếp tục làm việc xuất phát từ nhu cầu tăng thêm thu nhập phục vụ cho cuộc sống. Bên cạnh đó, khi tham gia vào thị trường lao động, người cao tuổi có một vị trí đặc biệt; họ là những người có kinh nghiệm và các kỹ năng để làm việc tốt nhất đã được tích lũy qua thời gian, ý thức chấp hành kỷ luật làm việc, sự am hiểu pháp luật tốt hơn. Vì vậy, khi bước vào giai đoạn già hóa dân số thì việc sử dụng người lao động cao tuổi là rất cần thiết. Việc tái sử dụng sức lao động của người cao tuổi nói chung và người lao động đã nghỉ hưu nói riêng đã trở thành một vấn đề thực tế cần được quan tâm chú ý. Điều này càng trở nên đặc biệt, khi Việt Nam đang đối mặt với những thách thức vô cùng to lớn của việc già hoá dân số ngày càng lớn.
3. Một số giải pháp
Để tạo việc làm cho người lao động đã nghỉ hưu bao gồm cả việc tạo ra việc làm và kết nối họ với những việc làm đó một cách nhanh chóng, dễ dàng và phù hợp là một thách thức lớn. Điều này thể hiện vai trò quan trọng của Nhà nước và toàn xã hội trong việc tạo ra các giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các thách thức đó.
Một là, Nhà nước cần có chính sách để tạo ra việc làm cho người cao tuổi nói chung và người lao động về hưu nói riêng bằng chính sách hỗ trợ, khuyến khích đối với các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp để tạo ra cơ chế ưu tiên trong tuyển dụng và sử dụng người lao động sau khi về hưu. Các chính sách này thể hiện rõ trên hai nhóm đối tượng là người sử dụng lao động và người lao động.
Đối với nhóm người sử dụng lao động, ưu tiên trong việc thành lập doanh nghiệp, các ưu đãi, hỗ trợ về thuế, phí, các chính sách về tín dụng, các chính sách về khen thưởng, tuyên dương… đối với những công việc liên quan đến người lao động cao tuổi.
Đối với nhóm người lao động sau khi nghỉ hưu, Nhà nước cần có chính sách để những người lao động nghỉ hưu và toàn xã hội công nhận khả năng và tầm quan trọng của họ trong việc tiếp tục tạo ra thu nhập và đóng góp cho nền kinh tế để họ thấy, chế độ hưu trí là trách nhiệm của Nhà nước với công dân nhưng việc tự nguyện trở lại làm việc sau khi nghỉ hưu lại là trách nhiệm của họ đối với Đất nước khi bước vào giai đoạn già hóa dân số. Xây dựng chính sách để họ tiếp cận với các nhu cầu công việc mà các tổ chức đang cần và phù hợp với nguyện vọng của họ, cung cấp thông tin của họ đến các tổ chức đó.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu để mở rộng tuổi nghỉ hưu. Trên thực tế, đã có giải pháp khuyến khích người cao tuổi tiếp tục ở lại làm việc nhưng chỉ đặc thù tại một số nhóm ngành nghề nhỏ nên cần nghiên cứu mở rộng nhóm ngành nghề và điều kiện để người cao tuổi tiếp tục làm việc sau tuổi nghỉ hưu theo quy định chung. Một số kinh nghiệm tại các nước, như: Nhật Bản, Hàn Quốc,… doanh nghiệp có chế độ bảo đảm việc làm cho nhân viên tuổi 65 và đến nay, phần lớn doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc đều đã xây dựng chế độ làm việc đến 65 tuổi.
Ba là, thành lập các sàn giao dịch việc làm cho người cao tuổi, người lao động về hưu. Bao gồm cả các sàn do các cơ quan nhà nước tổ chức và khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức khác trong xã hội thành lập và điều hành hoạt động như một hoạt động dịch vụ công, thực hiện các sàn giao dịch online và giao dịch trực tiếp. Các sàn giao dịch này thực hiện thông qua việc thành lập các trung tâm môi giới, giới thiệu việc làm hoặc thông qua các ứng dụng, các ứng dụng này có thể tích hợp tác cả các nhu cầu của người cao tuổi gồm dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế, thể dục, thể thao, nhu cầu giải trí, đọc sách và nhu cầu việc làm. Các ứng dụng này liên kết với cơ sở dữ liệu về người lao đông lớn tuổi, nắm bắt được nhu cầu, trình độ chuyên môn, địa chỉ làm việc, thông tin cá nhân,… nhằm chủ động thực hiện việc kết nối, giới thiệu.
Bốn là, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về người cao tuổi, trong đó có dữ liệu chuyên môn và nhu cầu việc làm cho người cao tuổi, người lao động về hưu. Áp dụng các thành tựu của cách mạng khoa học – công nghệ 4.0 và chuyển đổi số quốc gia theo mục tiêu của Chính phủ, Nhà nước tập trung khảo sát nhu cầu và xây dựng cơ sở dữ liệu về người cao tuổi nói chung và người lao động nghỉ hưu nói riêng ngay thời điểm người lao động về hưu, kết nói với dữ liệu quốc gia, dữ liệu vùng, tỉnh thành về việc làm và các nguyện vọng khác để thực hiện sự quản lý, chăm sóc, hỗ trợ đồng bộ, kịp thời.
Năm là, khuyến khích các chính sách thúc đẩy chế độ việc làm linh hoạt, để tăng khả năng tham gia của người cao tuổi. Chế độ làm việc linh hoạt phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây, đặc biệt là sau thời gian dài các doanh nghiệp, tổ chức gặp gián đoạn vì Covid – 19, đây là hình thức làm việc hướng theo kết quả đầu ra của sản phẩm, công việc, thời gian và vị trí làm việc linh hoạt, không ràng buộc, có thể thực hiện công việc bất cứ ở đâu, bao gồm làm việc tại nhà. Mục đích của chính sách này nhằm tiết kiệm các chi phí và nguồn lực cho doanh nghiệp, xã hội; đồng thời giúp người cao tuổi có khả năng tiếp cận được những công việc mà không cần phải tốn quá nhiều thời gian vào việc xây dựng các mối quan hệ, giao tiếp và di chuyển vốn là sự hạn chế do tuổi tác gây ra.
4. Kết luận
Người cao tuổi có thể là người có giá trị tri thức dày dặn với kinh nghiệm công việc qua năm tháng. Họ vẫn có thể tiếp tục lao động trực tiếp kiếm ra thu nhập thông qua những công việc phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và thế mạnh của mình. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh tổ chức và triển khai thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe người cao tuổi thì một việc rất quan trọng khác là cần tạo điều kiện cho người cao tuổi lao động trong khả năng. Một mặt tạo ra thu nhập cho cá nhân người cao tuổi, mặt khác, góp phần giảm tác động bất lợi đến tình hình phát triển kinh tế – xã hội do sự biến động của cơ cấu dân số gây ra.
Dù là người cao tuổi hay trẻ tuổi thì quyền tự do thụ hưởng các giá trị văn hóa, quyền tự do được tìm kiếm các hoạt động, công việc phù hợp với khả năng và nhu cầu của bản thân là như nhau. Nếu xây dựng được một xã hội dung nạp, biết chấp nhận và tạo điều kiện cho tự do, tự chủ và tự lựa chọn cá nhân nói chung thì bản thân người cao tuổi cũng sẽ là một nguồn lực đáng giá như mọi nguồn lực khác trong xã hội.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2019). Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019. H. NXB Thống kê.
2. Tổng cục Thống kê (2021). Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam. H. NXB Thống kê.
3. Chính sách dân số ở Việt Nam: Từ sinh đẻ có hướng dẫn đến dân số và phát triển. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/3601-giai-phap-thich-ung-voi-gia-hoa-dan-so-nhanh-o-viet-nam.html.
4. Giải pháp thích ứng với già hóa dân số nhanh ở Việt Nam. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/3601-giai-phap-thich-ung-voi-gia-hoa-dan-so-nhanh-o-viet-nam.html.
5. Xu hướng người lao động tìm việc làm sau khi nghỉ hưu. https://laodong.vn/gia-dinh-hon-nhan/xu-huong-nguoi-lao-dong-tim-viec-lam-sau-khi-nghi-huu-1228035.ldo.
6. Xu thế già hóa dân số ở nước ta và vấn đề chăm sóc sức khỏe, sử dụng lao động người cao tuổi. https://tapchicongsan.org.vn/chuong-trinh-muc-tieu-y-te-dan-so/-/2018/811402/xu-the-gia-hoa-dan-so-o-nuoc-ta-va-van-de-cham-soc-suc-khoe%2C-su-dung-lao-dong-nguoi-cao-tuoi.aspx.



