Phòng, chống lãng phí trong tinh gọn bộ máy

TS. Nguyễn Thị Hà
Học viện Chính trị Khu vực I

(Quanlynhanuoc.vn) – Tình trạng lãng phí xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó cả về mặt nhận thức, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và từ những nguyên nhân nội tại của cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy hiện nay. Để phòng, chống thực sự hiệu quả cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, như: hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao năng lực cán bộ, tăng cường kiểm kê, kiểm soát, bảo đảm công khai, minh bạch tài sản công. Đồng thời, cần tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và huy động mạnh mẽ sự tham gia, giám sát của toàn xã hội, đặc biệt là người dân và báo chí nhằm đạt được hiệu quả thực sự trong công cuộc tinh gọn bộ máy.

Từ khóa: Phòng, chống lãng phí, tinh gọn bộ máy, quản lý nhà nước.

1. Đặt vấn đề

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của Nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”. Người chỉ rõ “Tham ô có hại nhưng lãng phí có khi còn hại hơn nhiều: nó tai hại hơn tham ô vì lãng phí rất phổ biến…”, “Lãng phí tuy không lấy của công đút túi song kết quả cũng rất tai hại cho Nhân dân, cho Chính phủ. Có khi còn tai hại hơn nạn tham ô”. Tác hại của lãng phí được nhắc tới nhiều trong Văn kiện trong các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay.

Tổng kết về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí… chưa có chuyển biến rõ rệt. Phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp và ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Trong bối cảnh cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy tác động đến nhiều đối tượng, phạm vi tác động lớn đến con người và tài sản thì vấn đề chống lãng phí cần phải được quan tâm để từ đó đưa ra các giải pháp phòng, chống lãng phí triệt để và quyết liệt.

2. Cơ sở lý luận và thực tiễn

Theo Từ điển tiếng Việt, lãng phí là làm tốn kém, hao tổn một cách vô ích lãng phí là sử dụng không đúng mức, phí phạm sức lực, của cải; hoang phí do chi tiêu không đúng mức. Theo cách hiểu này, lãng phí chỉ được nhìn thấy khi hoạt động hay công việc đã hoàn thành xong, đánh giá về mặt kết quả không đánh giá về tính hiệu quả của hoạt động đó.

Theo Hướng dẫn số 63-HD/BCĐTW ngày 28/4/2025 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã giải thích thuật ngữ lãng phí như sau: “Lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, vốn đầu tư công, tài sản công, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên, năng lượng, các nguồn lực khác của nền kinh tế vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc việc quản lý, sử dụng không hiệu quả, không đạt được mục tiêu đã định hoặc tạo rào cản phát triển kinh tế, xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước”.

Trong Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 quy định tại khoản 2 Điều 3: “Lãng phí là việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên không hiệu quả. Đối với lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã định”.

Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Khiển (2016), lãng phí không phải là vô dụng cũng không phải “mất hoàn toàn”. Lãng phí là làm một việc mà việc đó có kết quả nhưng không có hiệu quả. Theo các cách định nghĩa này, lãng phí gắn liền với sự hoang phí về nguồn lực và sự kém hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực. Để xác định được mức độ lãng phí cần định rõ các tiêu chuẩn, định mức và khung đánh giá về hiệu quả của hoạt động, công việc, chương trình dự án… so với mục tiêu đã đặt ra. Lãng phí được thể hiện ở một số đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, lãng phí thể hiện ở sự tốn kém, hao tổn một cách vô ích. Khi đầu tư, bỏ ra nguồn lực có giá trị cao hơn so với nhu cầu mong muốn, mức trung bình hoặc không tương xứng với giá trị được thu lại. Nhưng vì một thủ tục hành chính rườm rà, kéo dài dẫn đến mất thời gian của cá nhân và tổ chức, thậm chí còn làm ảnh hưởng đến hiệu quả/chất lượng công việc của cá nhân, tổ chức do chậm thủ tục. Sự lãng phí này thể hiện vô ích khi các nguồn lực không mang lại bất kỳ giá trị, lợi ích hiệu quả nào.

Thứ hai, sử dụng không đúng định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định hoặc đúng định mức nhưng chất lượng đạt thấp hơn hoặc không đúng mục tiêu đã định. Định mức trong sử dụng nguồn lực có thể hiểu là các quy định, tiêu chuẩn cụ thể về số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian sử dụng và chi phí tối đa cho phép đối với từng loại nguồn lực khi các tổ chức, cơ quan, đơn vị do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Các định mức này được ban hành và áp dụng nhằm kiểm soát chi tiêu, ngăn ngừa lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, tạo sự công bằng, căn cứ pháp lý để đánh giá, kiểm tra, thanh tra. Tuy nhiên, việc sử dụng đúng định mức cần được đánh giá chất lượng của sản phẩm, do đó, để đánh giá mức độ lãng phí cần dựa vào định mức, tiêu chuẩn đầu ra của hoạt động hoặc công việc. Trong trường hợp này, cần phải đánh giá chất lượng công việc làm có đạt yêu cầu hay đạt được mục tiêu đề ra không.

Lãng phí có thể xảy ra trong nhiều lĩnh vực, các ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, cá nhân, ở mọi lúc, mọi nơi với mọi đối tượng. Do đó, yêu cầu cấp bách trong xã hội hiện nay cần phải chống lãng phí một cách toàn diện, triệt để và cần thực hiện một cách hệ thống và đồng bộ. Cấp độ lãng phí có thể nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau có thể ở cấp độ cá nhân, cấp độ xã hội. Trong bài viết, tác giả phân cấp độ lãng phí theo mức độ lan tỏa, ảnh hưởng của hành vi lãng phí.

Cấp độ 1: Lãng phí theo nghĩa thông thường là sự tiêu phí tài sản, của cải, công sức, thời gian mà phần nhiều có tính ngẫu nhiên hoặc thói quen mà ngay cả đối tượng gây ra lãng phí cũng không nhận thức được đó là hành vi lãng phí. Ví dụ, thói quen làm việc đã cũ lạc hậu nhưng ngại thay đổi dẫn đến mất nhiều thời gian và hiệu quả làm việc thấp.

Cấp độ 2: Bệnh lãng phí thể hiện ở mức độ lãng phí cố ý, có chủ đích, biết lãng phí những vẫn làm, tiêu phí bừa bãi, không giới hạn tiền bạc, của cải, sức lực, thời gian. Mặc dù chủ yếu là lãng phí của cá nhân nhưng đôi khi là của tổ chức. Nhiều cá nhân có thói quen trọng hình thức, háo danh, trưởng giả…

Cấp độ 3: Tệ lãng phí là làm thiệt hại của cải vật chất (mà chủ yếu là của công, không phải là của cá nhân), xảy ra có tính phổ biến, thường xuyên, ở mọi lúc, mọi nơi, làm phương hại đến uy tín của Đảng và Nhà nước, làm mất niềm tin trong Nhân dân, đây là mức độ trầm trọng nhất cần phải đấu tranh triệt để.

Đối với cấp độ 2 và cấp độ 3 được tách riêng vì mỗi cấp nhấn mạnh đến mức độ lãng phí nổi bật của cá nhân vào tổ chức nhưng đều là mức gây thiệt hại nghiêm trọng về cả mặt vật chất và tinh thần. Việc xác định được mức độ lãng phí là cơ sở để đề ra các biện pháp phòng, chống lãng phí trong quá trình tinh gọn bộ máy.

Hiện nay, “Tinh gọn bộ máy” là chủ trương sắp xếp, tổ chức lại bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng giảm đầu mối, giảm tầng nấc trung gian, giảm biên chế giúp bộ máy gọn nhẹ, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hơn. Mục tiêu của tinh gọn bộ máy là nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, giúp bộ máy làm việc nhanh hơn, năng động hơn, tránh chồng chéo, trì trệ; tiết kiệm nguồn lực, giảm chi phí hành chính, chi phí duy trì bộ máy; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, sắp xếp lại để sử dụng đúng người, đúng việc, đồng thời tinh giản những người không đáp ứng được yêu cầu; phục vụ Nhân dân tốt hơn, giảm phiền hà, thủ tục rườm rà cho người dân và doanh nghiệp. 

Tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị vừa là nguyên nhân vừa là giải pháp chống lại tệ lãng phí trong khu vực công. Tuy nhiên, nếu công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của các bộ, ngành, địa phương không được chú trọng, thiếu quyết tâm gắn với lộ trình tinh gọn bộ máy thì nguy cơ phát sinh lãng phí có thể xảy ra theo các cấp độ khác nhau.

2. Nhận diện lãng phí trong tinh gọn bộ máy

Biểu hiện lãng phí nói chung, như: lười biếng, lấy của công thành của tư (thời gian, tiền bạc, vật chất…), không tôn trọng kỷ luật lao động, lối sống xa hoa trên mọi lĩnh vực. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh có những dạng lãng phí, như: lãng phí sức lao động, lãng phí thì giờ, lãng phí tiền của, phô trương, hình thức, dài dòng ba hoa.

Các hành vi gây lãng phí đã được Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chỉ rõ trong Hướng dẫn số 63-HD/BCĐTW gồm có: hành vi vi phạm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, gây lãng phí; hành vi liên quan đến xây dựng, ban hành thể chế về quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; hành vi gây lãng phí trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước; hành vi gây lãng phí trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư công; đầu tư xây dựng, mua sắm quản lý, sử dụng tài sản công; hành vi gây lãng phí trong quản lý, khai thác, sử dụng đất đai và các tài nguyên khác; hành vi lãng phí trong quản lý, sử dụng vốn nhà nước trong dự án đầu tư theo phương thức đối tác công – tư (PPP), vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Trong quá trình tinh gọn bộ máy, các cấp độ lãng phí có thể xảy ra đối với nguồn lực công, như:

(1) Lãng phí, thất thoát tài sản công do không sử dụng, sử dụng kém hiệu quả, sử dụng không đúng mục đích do sáp nhập, giải thể hoặc thu hẹp quy mô các cơ quan, đơn vị.  Các bộ, ngành, địa phương sau sắp xếp có nhiều trụ sở, nhà đất công, các dự án đầu tư xây dựng trụ sở và trang thiết bị làm việc vượt tiêu chuẩn, định mức quy định, không đúng mục đích. Như xây dựng, bố trí sử dụng trụ sở không hiệu quả, không sử dụng hết công năng hoặc sử dụng không đúng mục đích (để cho thuê, liên doanh liên kết ngoài chức năng được giao…), đầu tư trang thiết bị dư thừa, đắt tiền quá mức cần thiết.

Vấn đề về nhà công vụ cũng cần được đặt ra sau khi tinh gọn bộ máy, như: bố trí sử dụng không đúng tiêu chuẩn định mức, đối tượng được sử dụng nhà công vụ hoặc chây ì không trả nhà cho cơ quan khi hết thời gian đảm nhiệm chức vụ. Để hạn chế sự lãng phí và thất thoát tài sản công trong bối cảnh hiện nay còn gặp nhiều khó khăn do chưa kịp có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở, máy móc, thiết bị… chưa kịp hoàn thiện, ban hành.

(2) Lãng phí nguồn nhân lực do cán bộ dôi dư, thiếu việc làm, chảy máu chất xám. Trong quá trình tinh gọn bộ máy thường tập trung vào việc loại bỏ những vị trí dư thừa, hợp nhất các bộ phận và tự động hóa quy trình để tăng hiệu quả và giảm chi phí. Nhưng nếu thực hiện thiếu đi sự cẩn trọng và khoa học có thể dẫn tới tình trạng lãng phí nguồn nhân lực. Đây là tình trạng nguồn nhân lực đáng lẽ có thể sử dụng hiệu quả để tạo ra những giá trị cho tổ chức thì lại bị bỏ lỡ mất nhân tài, giảm động lực và tinh thần làm việc trong quá trình tái cấu trúc, sắp xếp lại tổ chức để trở nên tinh gọn hơn.

Trong quá trình cắt giảm nhân sự, tổ chức có thể vô tình hoặc cố ý để mất những cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực và kinh nghiệm đối với tổ chức, đồng thời cũng tạo nên lỗ hổng về cân bằng độ tuổi trong tổ chức, mất đi sự kế thừa giữa các thế hệ và có thể gây ảnh hưởng đến tinh thần người ở lại. Những người nghỉ việc phần lớn là những người có nhiều năm kinh nghiệm và các mối quan hệ quan trọng đã được tích lũy trong quá trình làm việc nên nếu không có cơ chế chuyển giao hiệu quả, tổ chức sẽ mất đi tài sản “vô hình” rất giá trị. Những người ở lại sau tinh gọn vẫn tiếp tục làm việc trong bộ máy nhưng sự thay đổi công việc, tổ chức, môi trường làm việc… gây ra sự bất an, lo lắng, căng thẳng dẫn đến giảm động lực và năng suất làm việc.

Sự quá tải do đang giảm nhân sự nhưng khối lượng công việc không giảm tương ứng dẫn đến áp lực do số lượng và yêu cầu cao về chất lượng làm họ mệt mỏi và tăng nguy cơ nghỉ việc. Do đó, cũng cần tính tới việc tuyển dụng lại khi triển khai thực hiện công việc sau tinh gọn, phải đối mặt với sự thiếu hụt nhân sự ở các vị trí việc làm sau này và đào tạo lại tốn kém về thời gian và chi phí.

Để tránh lãng phí nguồn nhân lực khi tinh gọn bộ máy, ngoài việc lên chương trình, kiế hoạch, lộ trình rõ ràng thì cũng cần có những hoạt động đánh giá về nhu cầu nhân sự, quản lý sự thay đổi hiệu quả để giảm thiểu những tác động tiêu cực đến cán bộ, công chức, viên chức.

(3) Lãng phí thời gian lao động do gián đoạn công việc, tái tổ chức… Đây là loại lãng phí khi thời gian của cán bộ, công chức, viên chức không được sử dụng một cách hiệu quả, dẫn đến năng suất thấp hoặc không tạo ra giá trị đáp ứng tiêu chuẩn, định mức trong quá trình tổ chức tinh gọn hơn. Đây cũng là hệ quả của việc tinh gọn bộ máy cho dù đã được quản lý chặt chẽ. Do đó, sự lãng phí này không phải do tính chủ đích của cơ quan, tổ chức và cá nhân nhưng nếu nhận biết được rõ mà vẫn để hiện tượng này xảy ra kéo dài thì đây lại trở thành căn bệnh, thành tệ lãng phí.

Lãng phí thời gian đầu tiên là sự chờ đợi và không việc làm: khi sáp nhập, giải thể các quy trình bố trí, sắp xếp công việc có thể bị chậm trễ, thay đổi liên tục khiến cán bộ, công chức, viên chức phải chờ đợi hướng dẫn hoặc phân công, bố trí công việc mới để tiếp tục được làm việc; thiếu hụt thông tin/công cụ làm việc cần thiết khiến họ phải tạm ngừng việc để tìm kiếm hoặc chờ đợi các bên có liên quan cung cấp; sự chuyển giao, bàn giao công việc hoặc thanh lý tài sản có thể kéo dài, khiến cả người đi và người ở lại đều tốn thời gian không hiệu quả.

Lãng phí thời gian do năng lực người làm việc không hiệu quả cần phải được đào tạo, bồi dưỡng và làm quen, thích nghi với công việc mới, quy trình mới, hệ thống mới; cán bộ, công chức, viên chức cần có thời gian để tìm hiểu về chức năng, nhiệm vụ mới để hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của mình. Ngoài ra, lãng phí thời gian có thể xảy ra do các hoạt động họp hành, báo cáo quá nhiều với nhiều bên,… Như vậy, lãng phí khi tinh gọn bộ máy diễn ra ở nhiều nơi, trong nhiều hoạt động và có thể xảy ra trong suốt lộ trình tinh gọn bộ máy. Do đó, cần phải có các biện pháp để phòng, chống tệ lãng phí khi thực hiện tinh gọn bộ máy một cách nhanh chóng, quyết liệt và triệt để.

3. Một số giải pháp phòng chống lãng phí trong tinh gọn bộ máy

Thứ nhất, xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật và các chính sách của Nhà nước về sử dụng hiệu quả tài sản công sau tinh gọn bộ máy.

Với nguyên tắc “Một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm” cần được nhận thức, quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả để giảm tối đa hiện tượng chồng chéo, trách nhiệm không rõ ràng của các cơ quan, đơn vị, sự chia cắt về địa bàn lĩnh vực trong tinh gọn bội máy. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” trong khi Trung ương tăng cường vai trò hoàn thiện thế chế, kiểm tra, giám sát.

Cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật về cơ chế kiểm tra, giám sát, về quy hoạch, kiểm toán, về đầu tư, chế độ công vụ, chế độ tài chính,… đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước sau khi tinh gọn bộ máy. Hoàn thiện và ban hành các quy định về tiêu chuẩn, định mức, chế độ xử lý các tài sản công bị dôi dư sau tinh gọn bộ máy theo nguyên tắc “6 rõ”: “Rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền”. Thực hiện nguyên tắc này nhằm bảo đảm hiệu quả, minh bạch, tranh thất thoát nguồn lực công trong bối cảnh sắp xếp lại tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính

Thứ hai, nâng cao năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là thái độ, trách nhiệm đối với công việc mới.

Để đáp ứng được yêu cầu của môi trường làm việc mới, chức năng, nhiệm vụ mới, ứng dụng chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo đòi hỏi cán bộ, công chức, viên chức cần đáp ứng được trình độ chuyên môn và thái độ trách nhiệm cao. Đội ngũ cán bộ, công chức cần phải có dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu thử thách và dám chịu trách nhiệm mới có thể ngăn chặn được sự lãng phí do sự lề mề, sợ sai, sợ trách nhiệm. Thực hiện tốt các khâu bố trí, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt khen thưởng và công bằng trong quản lý sử dụng nhằm bảo đảm các quyền lợi của cán bộ, công chức, viên chức.

Thứ ba, tăng cường công tác kiểm kê, kiểm soát, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng tài sản công.

Thường xuyên cập nhật danh sách các cơ sở nhà, đất dôi dư mới phát sinh để bổ sung vào kế hoạch nhằm bảo đảm công tác xử lý tài sản công được triển khai đồng bộ, hiệu quả, tiết kiệm và đúng quy định của pháp luật. Sắp xếp, bố trí làm việc tại nhiều trụ sở trong giai đoạn đầu, sau khi rà soát, sắp xếp, bố trí lại trụ sở, cơ sở vật chất phù hợp với mô hình tổ chức mới, có thể bố trí làm việc tại nhiều trụ sở để bảo đảm công tác quản lý nhà nước vừa bảo đảm sự liền mạch trong cung cấp các dịch vụ công cho người dân, giảm bớt sự khó khăn trong di chuyển của những cán bộ, công chức, viên chức do sáp nhập.

Ứng dụng công nghệ vào trong quá trình kiểm kê, kiểm soát đối với quản lý nguồn lực công và cải cách thủ tục hành chính. Chuyển đổi số được xem là giải pháp mang tính đột phá, giúp tối ưu hóa quy trình làm việc và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm tính minh bạch trong quản lý tài sản công và tinh giản biên chế hiệu quả. Việc cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí và tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp giúp giảm các tầng nấc trung gian, giảm thủ tục hành chính, giảm cơ chế “xin – cho” và tăng cường tính minh bạch, từ đó loại bỏ được một số hình thức lãng phí. Huy động sức mạnh của các tổ chức chính trị – xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng để phòng, chống lãng phí một cách có hiệu quả.

4. Kết luận

Tinh gọn bộ máy là cuộc cách mạng đang được thực hiện quyết tâm, quyết liệt trong toàn bộ hệ thống chính trị, trên nhiều lĩnh vực khác nhau với nhiều mục tiêu hướng tới sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những khó khăn, thách thức. Trong đó, tình trạng lãng phí là hệ quả phức tạp gắn liền với quá trình tinh gọn này. Nguyên nhân gây ra tình trạng lãng phí là hệ quả phức hợp của nhiều yếu tố từ nhận thức đến hành vi của tập thể lãnh đạo, người đứng đầu, các quy định về phòng và đấu tranh chống lãng phí, sự ứng dụng công nghệ trong đấu tranh, phòng chống lãng phí…

Để thực hiện phòng, chống lãng phí hiệu quả cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, từ việc hoàn thiện bộ máy, các quy định về tiết kiệm, phòng chống lãng phí trong hệ thống chính trị và toàn xã hội, ứng dụng khoa học – công nghệ vào quá trình tinh gọn bộ máy, nâng cao năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, huy động sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính trị.

Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Nội vụ (2024). Báo cáo tóm tắt kết quả công tác năm 2024 và phương hướng nhiệm vụ của ngành Nội vụ.
2. Thủ tướng Chính phủ (2025). Công điện số 80/CĐ-TTg ngày 01/6/2025 về việc đẩy mạnh công tác triển khai thực hiện phương án xử lý tài sản sau sắp xếp, tổ chức bộ máy, đơn vị hành chính các cấp.
3. Viện Ngôn ngữ (2003). Từ điển Tiếng Việt. NXB. Đà Nẵng.
4. Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy: mục tiêu, thách thức và cơ hội. https://nhandan.vn/cuoc-cach-mang-tinh-gon-bo-may-muc-tieu-thach-thuc-va-co-hoi-post851998.html.
5. Tinh – gọn – mạnh, hiệu năng – hiệu lực – hiệu quả. https://baochinhphu.vn/bai-viet-cua-tong-bi-thu-to-lam-tinh-gon-manh-hieu-nang-hieu-luc-hieu-qua-102241105172459096.htm.