ThS. Lê Thị Hồng Hải
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Một trong số rất nhiều vấn đề pháp lý thường gặp hiện nay ở Việt Nam đang được lưu tâm là trách nhiệm nuôi dạy con sau ly hôn. Mới đây đã có những vụ án đau lòng liên quan tới vấn đề này gây nên nhiều dư luận trái chiều. Sở dĩ có những tranh luận trái chiều vì vấn đề pháp lý của Việt Nam trong lĩnh vực này vẫn có những điểm chưa theo kịp với thực tiễn. Bài viết đề cập những quy định pháp lý về quyền nuôi con sau ly hôn trong pháp luật Việt Nam, vấn đề đặt ra trong thực tiễn chia sẻ trách nhiệm nuôi dạy con sau ly hôn và một số khuyến nghị về mặt pháp lý, để từ đó, góp phần giúp các bậc cha mẹ sau ly hôn thực hiện tốt hơn trách nhiệm nuôi dạy con.
Từ khóa: Ly hôn; quyền nuôi con; trách nhiệm cấp dưỡng; trách nhiệm chăm sóc; pháp luật gia đình.
1. Đặt vấn đề
Trong một xã hội đã hội nhập về nhiều mặt, gia đình Việt Nam đang có sự chuyển biến về quy mô, chức năng, cơ cấu với nhiều giá trị mới. Các giá trị mới như vì lợi ích cá nhân, bình đẳng giới, dân chủ… đã có tác động nhất định tới các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Các mối quan hệ đã cởi mở hơn, dân chủ hơn, bình đẳng hơn nhưng theo đó cũng đưa đến những bất đồng, mâu thuẫn, xung đột trong gia đình, trong các mối quan hệ cha mẹ, con cái, quan hệ vợ chồng. Theo đó, các quy định về pháp luật, mang tính pháp lý cũng đã có những sửa đổi để phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, việc thực thi pháp luật hôn nhân gia đình trên thực tế còn nhiều bất cập.
Ly hôn hiện nay không còn là chuyện hiếm gặp trong cuộc sống. Đây được xem như kết thúc của quá trình khủng hoảng trong đời sống hôn nhân, bắt nguồn từ những quan điểm trái chiều, mâu thuẫn, xung đột theo thời gian, làm giảm dần sự mong đợi và hài lòng của những người trong cuộc.Bài viết tập trung nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề pháp lý đặt ra đối với việc thực hiện trách nhiệm nuôi dạy con sau ly hôn trong giai đoạn hiện nay và đề xuất một số khuyến nghị.
2. Tỷ lệ ly hôn và quyền nuôi con sau ly hôn ở Việt Nam trong những năm qua
Một là, tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam những năm gần đây.
Thực tế, tỷ lệ ly hôn thô ở Việt Nam luôn tăng trong giai đoạn 2000 – 2017 đã tăng dần từ 0,66 – 2,22% (Trần Thị Minh Thi, 2023). Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, vụ việc ly hôn tại Việt Nam trong giai đoạn 2018 – 2023 có sự biến động đáng chú ý. Số vụ ly hôn giảm trong ba năm 2018, 2019, 2020 và tăng trở lại từ năm 2022. Số vụ ly hôn ở mức thấp nhất trong giai đoạn với 22.132 vụ vào năm 2021. Năm 2020 – 2021 số vụ ly hôn giảm được cho là do ảnh hưởng của đại dịch COVID. Từ năm 2022, số vụ ly hôn bắt đầu tăng trở lại và tiếp tục tăng mạnh trong năm 2023 với 32.060 vụ (xem Biểu 1). Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm ngày 01/4/2024, tỷ trọng dân số từ 15 tuổi trở lên sống trong tình trạng ly hôn chiếm 2,6%, cao nhất từ trước tới nay (Tổng cục Thống kê, 2025).

Hai là, quyền nuôi con sau ly hôn, nghĩa vụ pháp lý được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành ở Việt Nam.
Sau mỗi cuộc ly hôn, có nhiều vấn đề pháp lý cần giải quyết, như việc phân chia tài sản, quyền nuôi con, quyền cấp dưỡng… Vấn đề nuôi con và chăm sóc con sau ly hôn luôn là một vấn đề đáng quan tâm nhất về mặt xã hội, vì có sự ảnh hưởng đến quá trình tham gia vào xã hội của các thế hệ tương lai.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, việc giao quyền nuôi con cho một bên sau khi ly hôn phải bảo đảm: “quyền lợi về mọi mặt của con”. Trong đó, quy định rõ: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp giành quyền nuôi con cũng như nghĩa vụ và quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không có thỏa thuận thì Tòa án quyết định giao con cho bên trực tiếp nuôi dưỡng vì lợi ích cao nhất của con về mọi mặt; nếu trẻ từ 7 tuổi trở lên cần tính đến nguyện vọng của trẻ.
Đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi do mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, người cha có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em (bị mắc các bệnh tâm thần, mất khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi, tư cách đạo đức suy đồi, hay đánh đập con cái,…) hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của trẻ em.
Đối với trẻ em từ 36 tháng tuổi đến dưới 7 tuổi: trong trường hợp hai vợ chồng không thỏa thuận được quyền nuôi con sau ly hôn, Tòa án sẽ quyết định ai là người được quyền nuôi con, dựa trên khả năng tài chính, điều kiện nuôi con, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, yếu tố lỗi trong việc dẫn đến ly hôn…
Đối với trẻ em từ 7 tuổi trở lên: trường hợp này phải xem xét ý kiến, nguyện vọng của con muốn ở với ai vì ở độ tuổi này con đã có nhận thực có khả năng cân nhắc xem ở với bố hay mẹ. Tuy nhiên,tòa vẫn phải cân nhắc các yếu tố về điều kiện nuôi con của bố mẹ để bảo đảm con được nuôi dưỡng, phát triển trong môi trường thuận lợi nhất”.
Trường hợp người trực tiếp nuôi con mà không chăm lo được tốt cho đứa trẻ thì người cha mẹ không trực tiếp nuôi con hoặc cá nhân tổ chức được quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đìnhnăm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Sau khi đã phân chia người được quyền nuôi con, pháp luật cũng có những quy định cụ thể đối với người không trực tiếp nuôi con. Theo đó, tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.”
Ba là, về nghĩa vụ cấp dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Điều 110 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”. Pháp luật cũng không quy định mức cấp dưỡng cụ thể của cha, mẹ đối với con mà chỉ quy định:
“1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tùy vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý”.
Như vậy, theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: người nào không trực tiếp nuôi con thì có nghĩa vụ cấp dưỡng. Và mức cấp dưỡng cho con do hai bên tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án nhân dân sẽ dựa trên các chi phí sinh hoạt, học tập thiết yếu của con và khả năng tài chính của người phải cấp dưỡng để quyết định một mức cấp dưỡng hợp lý, phương thức cấp dưỡng hợp lý bảo đảm quyền lợi cho tất cả các bên.
Đồng thời, cho đến khi con thành niên và có khả năng lao động, nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con mới chấm dứt. Mặc dù vậy, nếu vào lứa tuổi thành niên, con còn đi học và chưa có tài chính ổn định, cha mẹ có thể thoả thuận để thời gian thực hiện cấp dưỡng dài hơn. Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hằng tháng, hằng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.
Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tùy từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con hợp lý. Theo quy định này, người cha không trực tiếp nuôi dưỡng thì có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản tự nuôi mình.
Bốn là, về vấn đề chăm sóc, giáo dục con sau ly hôn.
Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau: “1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
4. Về nguyên tắc, việc nuôi con khi ly hôn trước hết do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết, con dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con, Tòa án sẽ xem xét các yêu tố sau đây để đưa ra quyết định sẽ giao con cho ai nuôi dưỡng”.
Tìm hiểu các quy định về pháp lý liên quan đến quyền nuôi con và trách nhiệm nuôi con sau ly hôn, có thể thấy, pháp luật chưa có những quy định cụ thể đối với việc chăm sóc và giáo dục con sau ly hôn đối với người cha/mẹ không sống cùng mà chỉ là những quy định chung chung rằng: “Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc” và không có chế tài cụ thể đối với trường hợp không thực hiện trách nhiệm hoặc đối với trường hợp cản trở việc thực hiện trách nhiệm. Việc thực hiện trách nhiệm nuôi dạy con sau ly hôn phụ thuộc nhiều vào sự thỏa thuận của hai bên bố mẹ. Điều này đặt ra nhiều vấn đề đối với người trực tiếp nuôi con cũng như người không trực tiếp nuôi con.
3. Vấn đề đặt ra trong thực tiễn chia sẻ trách nhiệm nuôi dạy con sau ly hôn
Các nghiên cứu trước đây đều cho thấy xu hướng con cái ở với mẹ sau khi cha mẹ chia tay. Về việc chia sẻ trách nhiệm nuôi dạy con giữa người trực tiếp nuôi và người không trực tiếp nuôi thường xảy ra hai tình trạng:
Một là, người không trực tiếp nuôi dưỡng không thực hiện trách nhiệm.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra, người cha thường không cùng người mẹ chăm sóc con chung sau khi ly hôn, thậm chí chu cấp tài chính cũng không (Vũ Mạnh Lợi và Trần Nguyệt Minh Thu, 2021; Nguyễn Thị Thanh Tâm, 2002). Họ thường tự do rời đi sau hôn nhân mà không cấp dưỡng cho vợ cũ nuôi con. Họ không bị chịu sự phán xét nào của dư luận xã hội và cũng không bị chịu sự giám sát nào của hệ thống pháp luật, nhất là nhóm không làm việc tại hệ thống nhà nước (Trần Thị Minh Thi, 2023). Khi người cha không thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng theo phán quyết của tòa, theo quy định của pháp luật, người phụ nữ có thể khởi kiện để đòi quyền lợi cho con nhưng việc làm ấy là không thực sự hiệu quả.
Về mặt lý thuyết, người mẹ chỉ trình đơn, cơ quan tiếp nhận phải xử lý và yêu cầu người chaphải thực hiện trách nhiệm theo đúng quy định của pháp luật. Nhưng những vụ việc như thế này (kiện đòi thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng sau ly hôn) thường được coi là ít quan trọng, là việc dân sự, tự giải quyết. Trong trường hợp, tòa thụ lý hồ sơ đưa ra xét xử, nếu như người đàn ông “cãi cùn” hoặc thật sự họ khó khăn, họ không có tiền để chu cấp thì cũng phải chấp nhận.
Thực tế cho thấy, có trường hợp đã kiện để đòi quyền lợi cho con. Tòa đã xử kiện nhưng rời phiên tòa, người bố vẫn không thực hiện và người phụ nữ cũng phải chấp nhận vì không thể làm gì hơn. Do đó, rất khó để người đàn ông thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng sau khi người phụ nữ kiện đòi quyền lợi. Vì một người cha đã có ý thức trách nhiệm thì họ không để phải ra tòa xử kiện. Trường hợp để xảy ra kiện cáo thì hầu như họ đã không muốn thực hiện trách nhiệm này. Có trường hợp đòi được là do người đàn ông sợ ảnh hưởng đến uy tín, vị trí lãnh đạo họ đang có.
Vì sự không chặt chẽ của pháp luật mà nhiều phụ nữ chấp nhận không kiện đòi quyền lợi cấp dưỡng cho con. Theo họ, việc nhờ đến pháp luật xử lý vừa tốn kém hơn nữa còn ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai người lớn và như thế cũng sẽ ảnh hưởng đến con cái ở những mặt khác.
Hai là, người trực tiếp nuôi dưỡng ngăn cản thực hiện quyền nuôi con.
Bên cạnh trường hợp người cha không thực hiện trách nhiệm nuôi dạy con sau ly hôn đối với con sống cùng mẹ cũng có những trường hợp họ gặp phải sự ngăn cản, cản trở từ phía người mẹ. Không ít trường hợp do bị ngăn cản đã bức xúc và có những hành vi bạo lực đối với người ngăn cản. Vụ việc mới xảy ra gần đây ở Huế, khi người cha bị ngăn cản đã không kiềm chế được và khiến 3 người nhà vợ cũ tử vong. Vụ việc như này là không phổ biến nhưng để lại hậu quả rất lớn cho bản thân cá nhân, cho gia đình và cho xã hội.
Về cơ bản, nam giới đều nắm được luật là họ có thể kiện đòi quyền lợi. Tuy nhiên, các quy định còn lỏng lẻo, xử lý không hiệu quả. Thậm chí, không được người thực thi pháp luật chú ý nhiều vì cho là việc của gia đình, là vấn đề dân sự, không nghiêm trọng. Cũng có trường hợp, có tiền là giải quyết được và cũng không thiếu gì “cách” nếu muốn thắng kiện nhưng không thể làm như thế vì nghĩ đến con, đến sự phát triển và tâm lý của con.
Vì pháp luật liên quan đến hôn nhân và gia đình, cụ thể liên quan đến việc thực hiện trách nhiệm chăm sóc, nuôi dạy con sau ly hôn còn nhiều hạn chế, có thể thấy việc chia sẻ trách nhiệm nuôi dạy con sau ly hôn đang phụ thuộc nhiều vào ý thức trách nhiệm của mỗi người. Chính vì thế, pháp luật còn chưa thực sự có hiệu quả trong việc can thiệp, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân liên quan trong vấn đề này. Những quy định còn lỏng lẻo, người thực hành pháp luật cũng chưa thực sự nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề này.
4. Khuyến nghị
Về mặt pháp lý, pháp luật còn nhiều lỗ hổng, chưa quy định rõ ràng, dẫn đến việc giải quyết không được triệt để, không có chế tài để bảo đảm cho việc thực thi và đặc biệt chưa có sự quan tâm đúng mức tới vấn đề. Khi nam giới không thực hiện trách nhiệm hoặc khi nam giới gặp sự cản trở trong việc thực hiện trách nhiệm làm cha, cả phụ nữ và nam giới đều không tìm đến sự can thiệp của pháp luật mặc dù theo quy định, họ có thể khởi kiện. Theo phản ánh, vì đây là những vấn đề dân sự nên ít được nhân viên pháp lý chú ý hoặc phải chi phí rất nhiều để thắng kiện. Nhưng sau đó, nếu người thua kiện không thực hiện thì cũng không có chế tài áp chế (Lê Thị Hồng Hải, 2024).
Tuy thực tế hiện nay pháp luật còn chưa thực sự hiệu quả nhưng không thể phủ nhận vai trò của pháp luật trong điều chỉnh hành vi của mỗi người trong cuộc. Cần có những điều chỉnh để phù hợp với thực tế như quy định cụ thể đối với việc dành thời gian cho con và sự hợp tác nuôi dạy con.
(1) Đối với cơ quan lập pháp: cần có những điều chỉnh nhất định để pháp luật được cụ thể, rõ ràng hơn, dễ thực thi hơn trong thực tế. Cần xác định mức cấp dưỡng tối thiểu cho một đứa trẻ dựa trên việc tính toán các nhu cầu của trẻ ở mức cơ bản và theo vùng miền để đưa ra mức cấp dưỡng khởi điểm đối với người không trực tiếp nuôi trẻ. Như vậy sẽ giúp các cặp vợ chồng trong quá trình ly hôn có cơ sở cho việc thỏa thuận mức cấp dưỡng và có thể đảm bảo được cuộc sống của trẻ em ở mức cơ bản. Về chăm sóc và giáo dục cũng cần có những quy định cụ thể mang tính định lượng đối với việc thăm hỏi, liên lạc giữa cha mẹ không trực tiếp nuôi con với người con. Cần có quy định cụ thể những trường hợp được phép thăm hỏi, liên lạc với con và những trường hợp không được phép, có thể gọi là truất quyền làm cha/làm mẹ.
Ngoài việc có những quy định pháp luật cụ thể đối với việc thực hiện trách nhiệm nuôi dạy con say ly hôn cũng cần có những chế tài cụ thể đủ sức dăn đe đối với trường hợp không thực hiện đúng quy định của pháp luật.
(2) Đối với cơ quan hành pháp: để việc thực thi quy định của pháp luật một cách hiệu quả, cần nâng cao nhận thức cho người dân về quyền lợi và trách nhiệm của mình trong lĩnh vực này. Ngoài ra, điều quan trọng hơn là cần nâng cao nhận thức cho người thi hành pháp luật về lĩnh vực này một cách đồng bộ, toàn hệ thống. Tránh trường hợp cho rằng đây là những vấn đề mang tính nội bộ gia đình, mang tính dân sự nên không nghiêm trọng, cấp bách. Cần có những bộ phận riêng để xử lý những vụ việc liên quan đến lĩnh vực này hoặc không thì cần có những tập huấn cho người thực thi pháp luật thấy được tầm quan trọng của vấn đề để họ nâng cao trách nhiệm trong xử lý các vụ việc liên quan đến việc chia sẻ trách nhiệm trong nuôi dạy con sau ly hôn.
(3) Đối với cơ quan quản lý: Cần có các chương trình giáo dục tiền hôn nhân để nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của gia đình, về vai trò và trách nhiệm của từng cá nhân trong gia đình như vai trò làm cha, vai trò làm mẹ; về kiến thức và kỹ năng thực hiện vai trò trong gia đình; kỹ năng giải quyết, xử lý các quan hệ gia đình, các mâu thuẫn và xung đột trong gia đình. Đặc biệt, cần có nội dung liên quan đến trách nhiệm và quyền hạn của mỗi thành viên gia đình trong trường hợp ly hôn, cách ứng xử sau ly hôn, cách nuôi dạy con sau ly hôn.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Thị Hồng Hải (2024). Chia sẻ trách nhiệm của người cha trong nuôi dạy con sau ly hôn (nghiên cứu trường hợp Hà Nội). Báo cáo nhiệm vụ cấp cơ sở. Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới.
2. Vũ Mạnh Lợi (2021). Vấn đề ly hôn trong xã hội Việt Nam hiện đại (sách chuyên khảo). H. NXB Khoa học xã hội.
3. Quốc hội (2014). Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
4. Nguyễn Thanh Tâm (2002). Ly hôn: nghiên cứu trường hợp Hà Nội. H. NXB Khoa học xã hội.
5. Trần Thị Minh Thi (2023). Ly hôn ở Việt Nam hiện nay: tính cá nhân, giá trị gia đình và bản sắc văn hóa (nghiên cứu trường hợp Tây Nam Bộ). H. NXB Khoa học xã hội.
6. Trần Thị Minh Thi (2015). Thực trạng phân chia con cái và nhà ở sau ly hôn hiện nay (nghiên cứu trường hợp đồng bằng sông Hồng). Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 6/2015 (quyển 25), tr.12 – 24.
7. Tổng cục Thống kê (2025). Kết quả điều tra sân số và nhà ở giữa kỳ năm thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2024. H. NXB Thống kê.