ThS. Đặng Thuỳ Trang
Học viện Chính trị khu vực I
(Quanlynhanuoc.vn) – Ngành du lịch tại Lào Cai đang được xem là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn với nhiều tiềm năng, lợi thế vốn có, tuy nhiên thực tế cho thấy những kết quả mà du lịch đem lại chưa thực sự xứng tầm với tiềm năng của tỉnh. Đặc biệt, trong giai đoạn hội nhập quốc tế, ngành Du lịch tỉnh ngày càng gặp nhiều thách thức về phát triển bền vững. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển du lịch tỉnh trong những năm vừa qua, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả tài nguyên, bảo vệ cảnh quan và gìn giữ văn hóa, từ đó thúc đẩy du lịch Lào Cai phát triển bền vững.
Từ khoá: Bền vững, phát triển du lịch, Lào Cai.
1. Đặt vấn đề
Du lịch hiện nay là nhu cầu thiết yếu của con người, mang lại nhiều lợi ích, như: tạo việc làm, tăng thu nhập và thúc đẩy kinh tế. Tuy nhiên, nó cũng kéo theo những tác động tiêu cực như ô nhiễm môi trường, mất bản sắc văn hóa và ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Vì vậy, phát triển du lịch bền vững trở thành xu hướng tất yếu trên toàn cầu.
Lào Cai là tỉnh miền núi, biên giới, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc, có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế – xã hội. Tại Nghị quyết số 60-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII), quyết định sáp nhập tỉnh Lào Cai và Yên Bái, lấy tên gọi là tỉnh Lào Cai. Sự hợp nhất này là khởi đầu cho một hành trình mới, vươn xa bền vững, vì một vùng đất hội tụ bản sắc văn hóa các dân tộc với khát vọng vươn lên phát triển trong kỷ nguyên mới.
Với vị trí chiến lược tại trung tâm khu vực Tây Bắc, việc phát triển du lịch tại đây không chỉ góp phần nâng cao đời sống người dân và tăng trưởng kinh tế mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc kiểm soát tác động tiêu cực. Do đó, cần xây dựng các giải pháp cụ thể nhằm phát triển du lịch theo hướng bền vững, bảo đảm lợi ích lâu dài và hài hòa cho cộng đồng, môi trường và nền kinh tế địa phương.
2. Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững
Phát triển bền vững lần đầu tiên xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi trường vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX. Đến năm 1987, Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) của Liên hiệp quốc đã đưa ra định nghĩa rằng: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không làm cản trở khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”1. Tại Việt Nam, Đại hội Đảng lần thứ XI, thông qua Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI cũng đã nhấn mạnh: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững,… Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,…”2.
Để bảo đảm phát triển bền vững, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức do đó cần thiết phải có những chủ trương, chính sách và công cụ pháp luật hiệu quả để ứng phó với các vấn đề này. Du lịch là một trong những lĩnh vực ưu tiên và vô cùng quan trọng để bảo đảm phát triển bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Phát triển bền vững chính là con đường tất yếu để ngành Du lịch Việt Nam phát triển mạnh mẽ và lâu dài.
Phát triển du lịch bền vững, theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) đưa ra tại Hội nghị về Môi trường và phát triển của Liên hợp quốc tai Rio de Janeiro năm 1992 thì: “Phát triển du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách và người dân bản địa, trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho phát triển du lịch trong tương lai”3.
Tại Việt Nam, trong khoản 14, Điều 3, Luật Du lịch năm 2017 đã đưa ra khái niệm “Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu cầu về kinh tế – xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai”4.
Thứ nhất, phát triển du lịch bền vững giúp phát triển kinh tế. Ngành Du lịch đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế quốc gia một cách ổn định. Du lịch còn tạo ra công ăn việc làm, thu nhập ổn định và công bằng cho cộng đồng dân cư, doanh nghiệp, các địa phương cũng như bảo vệ quyền lợi của du khách. Phát triển du lịch bền vững không chỉ mang lại lợi ích cho người làm du lịch, các cơ quan địa phương và chính quyền mà còn giúp người dân địa phương có thêm cơ hội việc làm và cải thiện thu nhập.
Thứ hai, phát triển du lịch bền vững giúp bảo vệ môi trường sống. Tính bền vững về môi trường trong hoạt động du lịch có nghĩa là thực hiện các hoạt động du lịch sử dụng tài nguyên thiên nhiên mà không vượt quá khả năng tái tạo của chúng. Việc bảo đảm sự hài hòa về môi trường sinh sống cho các loài động thực vật trong vùng cũng là giúp cho môi trường sống của con người được bảo đảm. Điều này đồng nghĩa với việc du lịch cần phải giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực đến môi trường, đồng thời bảo vệ và duy trì môi trường sống nhằm phục vụ phát triển du lịch tốt hơn.
Thứ ba, phát triển du lịch bền vững còn bảo đảm các vấn đề về xã hội. Du lịch cũng đóng góp vào việc giảm bớt tệ nạn xã hội bằng cách tạo ra công ăn việc làm cho người dân trong khu vực. Nhìn rộng hơn, du lịch bền vững giúp khai thác tài nguyên một cách có ý thức và khoa học, bảo vệ và duy trì sự phát triển của các nguồn tài nguyên này để thế hệ tương lai có thể tiếp nối và tận dụng chúng một cách bền vững.

3. Tiềm năng phát triển du lịch bền vững tại Lào Cai
Ngày 12/6/2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh. Từ 01/7/2025, sắp xếp toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của tỉnh Yên Bái và tỉnh Lào Cai thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Lào Cai. Việc sáp nhập hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai là một bước ngoặt quan trọng, chủ trương sáp nhập này không chỉ mang tính chiến lược mà còn là quyết định quan trọng của Trung ương nhằm xây dựng một cực tăng trưởng mới cho khu vực Trung du và miền núi phía Bắc.
Trong những năm qua, Yên Bái và Lào Cai đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và định hướng, như: Quyết định số 2626-QĐ/UBND của UBND tỉnh Lào Cai về việc ban hành khung chiến lược phát triển du lịch tỉnh Lào Cai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 27/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phát triển du lịch tỉnh Lào Cai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 1086/QĐ-TTg ngày 18/9/2023 về phê duyệt quy hoạch tỉnh Yên Bái thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Nghị quyết số 81/2024/NQ-HĐND quy định chính sách hỗ trợ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Yên Bái giai đoạn 2024 – 2030…
Các chiến lược phát triển du lịch của hai tỉnh đều tập trung vào ba trụ cột chính: môi trường, kinh tế – xã hội, đồng thời gắn với quy hoạch và phát triển du lịch xanh, bền vững. Do việc sáp nhập tỉnh từ ngày 01/7/2025, nghiên cứu giới hạn thông tin, số liệu thống kê dựa trên các báo cáo của tỉnh Yên Bái và Lào Cai trước thời điểm diễn ra quá trình sáp nhập.

(1) Về vị trí địa lý
Lào Cai có hệ thống giao thông khá đồng bộ, đóng vai trò quan trọng trong việc trung chuyển giữa vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Tuyến cao tốc Nội Bài – Lào Cai hiện đóng vai trò như “động mạch chính”, đồng thời, kết nối vào các tuyến đồng bằng với vùng di sản Tây Bắc, như: Mù Cang Chải, Trạm Tấu và Nghĩa Lộ, qua đó thúc đẩy mạnh mẽ dòng khách du lịch đổ về khu vực. Đây chính là cơ hội để phát triển tỉnh thành “Trung tâm du lịch động lực của miền núi phía Bắc” gắn liền với chiến lược “Trục thịnh vượng sông Hồng” và quy hoạch cụm du lịch chất lượng cao gồm Sa Pa – Bắc Hà – Nghĩa Lộ – Mù Cang Chải – Suối Giàng.
Việc nằm trên hành lang kinh tế Côn Minh – Hà Nội – Hải Phòng cũng là điều kiện lý tưởng để phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng gắn với chuỗi du lịch quốc tế. Sau sáp nhập, tỉnh Lào Cai mới được xem là một phép cộng chiến lược trong phát triển du lịch. Sự bổ trợ lẫn nhau này hứa hẹn sẽ nâng tầm vị thế du lịch vùng, tạo ra động lực phát triển bền vững và cạnh tranh hơn trên bản đồ du lịch quốc gia cũng như quốc tế.
(2) Về tài nguyên du lịch
Tỉnh Lào Cai mới hứa hẹn sẽ trở thành một điểm sáng du lịch khi sở hữu một “vành đai di sản” độc đáo, kéo dài từ đỉnh Fansipan huyền thoại đến lòng hồ Thác Bà. Lào Cai được mệnh danh là “cửa ngõ du lịch vùng cao” với điểm nhấn là thị trấn Sa Pa – biểu tượng du lịch của tỉnh đã được tạp chí danh tiếng Time Out (Anh) vinh danh là đại diện duy nhất của Việt Nam nằm trong danh sách 16 thị trấn đẹp nhất thế giới, Đỉnh Fansipan được mệnh danh là “Nóc nhà Đông Dương” với độ cao 3.143m với Vườn Quốc gia Hoàng Liên – Vườn Di sản ASEAN. Hay như những nét hấp dẫn riêng với vẻ đẹp nguyên sơ và bản sắc văn hóa đậm nét qua các địa danh, như: Suối Giàng, Mường Lò, Mù Cang Chải – vùng ruộng bậc thang được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt, được báo chí quốc tế ca ngợi là điểm đến đẹp nhất Đông Nam Á.
(3) Về văn hoá phi vật thể
Lào Cai còn là vùng đất hội tụ nhiều nền văn hóa đặc trưng với các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, tài nguyên và sản phẩm du lịch đặc sắc cùng với hướng đi đúng đắn, bền vững và nâng cao vị trí của du lịch trong cơ cấu phát triển kinh tế của tỉnh. Tính đến đầu năm 2025, Lào Cai có 41 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó có 2 di sản được UNESCO ghi danh vào Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại5, Yên Bái có 510 di sản văn hóa phi vật thể của đồng nào dân tộc thiểu số, 1 Danh thắng được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt là Ruộng bậc thang Mù Cang Chải; 1 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là Nghệ thuật Xòe Thái được UNESCO ghi danh; 11 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia6. Việc tôn vinh các di sản văn hóa phi vật thể không chỉ tạo nên trải nghiệm độc đáo cho du khách mà còn tạo ra thu nhập, việc làm, nguồn lực để bảo tồn và phát huy giá trị di sản góp phần bảo vệ và phát triển bền vững di sản văn hóa truyền thống.
(4) Về nhân lực du lịch
Tính đến đầu năm 2025, Lào Cai có khoảng 29.200 lao động đang làm việc trong lĩnh vực du lịch, hơn 500 lượt người tham gia 9 lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ lễ tân, kỹ năng sử dụng phần mềm quản lý, bảo vệ môi trường, ứng dụng công nghệ 4.07. Yên Bái có khoảng 8.000 lao động đang làm việc lĩnh vực du lịch, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã đào tạo nghề cho trên 12.500 lao động thuộc lĩnh vực du lịch và dịch vụ, tỷ lệ lao động qua đào tạo trong lĩnh vực dịch vụ đến nay đạt 34,5%8. Tỉnh chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ ngành Du lịch thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu và nâng cao kỹ năng cho người lao động địa phương. Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của du khách mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo dựng ấn tượng tốt đẹp về điểm đến du lịch tại tỉnh.
(5) Về cơ sở hạ tầng du lịch
Năm 2024, Lào Cai có 1.571 cơ sở lưu trú với khoảng 16.000 phòng, gồm: 4 khách sạn hạng 5 sao, 9 khách sạn hạng 4 sao, 13 khách sạn hạng 3 sao, 61 khách sạn hạng 2 sao, 129 khách sạn hạng 1 sao, 864 cơ sở lưu trú không xếp hạng (gồm khách sạn, nhà nghỉ) và 491 homestay9. Yên Bái có 562 cơ sở lưu trú, trong đó có 15 cơ sở lưu trú xếp hạng từ 1 sao đến 3 sao, 268 hộ hoạt động homestay10.
Dự kiến đến năm 2030, tỉnh mới sẽ đón khoảng 16,5 triệu lượt khách, với doanh thu du lịch ước đạt 74,8 nghìn tỷ đồng11. Tỉnh đã và đang đầu tư mạnh mẽ vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch hiện đại, bao gồm: các tuyến đường giao thông, hệ thống lưu trú và các điểm tham quan hấp dẫn. Những cải thiện này không chỉ nâng cao chất lượng dịch vụ mà còn tạo điều kiện thuận lợi để đón tiếp du khách từ mọi miền, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành du lịch địa phương.
4. Thực trạng phát triển du lịch theo hướng bền vững tại tỉnh Lào Cai
Thứ nhất, về mặt kinh tế.
Về số lượng khách du lịch tại Lào Cai, năm 2024, tổng lượng khách đạt gần 8,1 triệu lượt khách, trong đó, khách quốc tế đạt hơn 820 nghìn lượt, khách nội địa hơn 7,2 triệu lượt, tăng 11,45 % so với lũy kế cùng kỳ năm 2023 (7.261.581 lượt). Tổng thu từ khách du lịch đạt 26.943 tỷ đồng, bằng 98% so với kế hoạch năm (27.200 tỷ đồng), tăng 21% so với lũy kế cùng kỳ năm 2023 (22.244 tỷ đồng). Quý I năm 2025, theo thống kê, tổng lượng khách du lịch đạt hơn 3 triệu lượt khách, tổng thu từ khách du lịch đạt khoảng 10.235 tỷ đồng, tăng 60% so với lũy kế cùng kỳ năm 2024 (6.407 tỷ đồng)12.
Tại Yên Bái, năm 2024, đón và phục vụ trên 2,1 triệu lượt khách, tăng 3%, trong đó khách quốc tế ước đạt 270.000 lượt; doanh thu ước đạt 1.790 tỷ đồng, bằng 119,3% kế hoạch, tăng 4% so với cùng kỳ. Quý I năm 2025 toàn tỉnh đón 742.335 lượt khách, bằng 37,1% kế hoạch; bằng 107,1% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, khách quốc tế đạt 83.582 lượt khách, doanh thu đạt 632,2 tỷ đồng, bằng 37,2% kế hoạch, bằng 116,9% so với cùng kỳ năm 202413. Có thể thấy, du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng GRDP góp phần nâng cao chất lượng đời sống người dân của tỉnh. Đây không chỉ là bước tiến trong phát triển du lịch địa phương mà còn là động lực thúc đẩy phát triển toàn vùng Tây Bắc trong giai đoạn mới.

Thứ hai, về mặt xã hội.
Hoạt động du lịch tại Lào Cai đã và đang góp phần tạo ra cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập và giảm nghèo cho cư dân địa phương. Nhiều gia đình chuyển sang kinh doanh dịch vụ du lịch, như: mở nhà nghỉ, homestay, quán ăn, làm hướng dẫn viên phục vụ du khách. Các làng nghề như làng nghề dệt thổ cẩm ở Sa Pa, làng nghề mây tre đan ở Tả Phìn, hay các sản phẩm nông sản sạch Suối Giàng, Mù Căng Chải… đã trở thành điểm đến phục vụ du khách, đồng thời, tạo thêm việc làm cho cộng đồng địa phương. Chính quyền tỉnh chú trọng vào việc công khai niêm yết giá các dịch vụ, cấm bán hàng rong và chèo kéo du khách tại các khu du lịch nổi tiếng. Các số hotline được xây dựng để du khách có thể phản ánh các hành vi vi phạm từ các cơ sở kinh doanh. Nhờ sự quản lý chặt chẽ, tình trạng tệ nạn xã hội tại các điểm du lịch của tỉnh vẫn ở mức thấp góp phần xây dựng một hình ảnh du lịch bền vững và thân thiện.
Thứ ba, về môi trường.
Lào Cai đã triển khai nhiều giải pháp nhằm bảo vệ môi trường du lịch. Sở Du lịch Lào Cai đã phối hợp với Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường tổ chức chương trình tập huấn “Giảm thiểu ô nhiễm môi trường do chất thải nhựa tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trong lĩnh vực du lịch” năm 2024. Ngày 29/5/2025, tỉnh Lào Cai tổ chức Hội nghị tuyên truyền về công tác bảo vệ tài nguyên du lịch và nâng cao nhận thức cộng đồng về tác hại của chất thải nhựa tại các cơ sở lưu trú và các điểm du lịch. Đây là một trong những bước đi quan trọng nhằm nâng cao nhận thức và cải thiện tình hình ô nhiễm tại các cơ sở du lịch. Tỉnh cũng tập trung vào việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường. Các hoạt động kiểm tra và xử lý vi phạm về môi trường tại các khu, điểm du lịch đã được tăng cường, như: rà soát và đánh giá tình hình triển khai các đề án phân loại, xử lý rác thải tại các cơ sở du lịch nhằm bảo đảm các biện pháp bảo vệ môi trường được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả.
Mặc dù sở hữu nhiều tiềm năng và lợi thế, hoạt động du lịch tại Lào Cai vẫn tồn tại một số hạn chế cần được khắc phục. Cụ thể: các loại hình du lịch còn đơn điệu, thiếu điểm vui chơi, giải trí và mua sắm đặc trưng; tuyến phố ẩm thực chưa được hình thành. Chất lượng dịch vụ du lịch nhìn chung chưa đáp ứng được kỳ vọng, đặc biệt với du khách quốc tế. Vấn đề môi trường, nhất là xử lý rác thải tại các điểm du lịch và trung tâm đô thị vẫn chưa được giải quyết triệt để, ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng hình ảnh du lịch xanh. Công tác xúc tiến, quảng bá còn thiếu chuyên nghiệp, nguồn lực hạn chế và thiếu chiến lược tiếp cận thị trường quốc tế hiệu quả. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực ngành du lịch còn thiếu chuyên môn, kỹ năng và số lượng được đào tạo bài bản chưa nhiều. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vẫn chưa được khuyến khích đúng mức trong khi đây là yếu tố then chốt để hướng đến phát triển du lịch bền vững.
5. Giải pháp phát triển du lịch bền vững tại Lào Cai
Thứ nhất, thiết lập sự hài hòa giữa bảo vệ môi trường tự nhiên, phát triển kinh tế địa phương và gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống. Việc khai thác các tài nguyên du lịch cần được thực hiện có chọn lọc, phù hợp với sức chứa của từng điểm đến và dựa trên nghiên cứu kỹ lưỡng về đặc trưng sinh thái, văn hóa và cộng đồng. Cần ưu tiên xây dựng môi trường du lịch an toàn, thân thiện và sạch đẹp thông qua việc ứng dụng năng lượng tái tạo, giảm thiểu khí thải, xử lý hiệu quả chất thải sinh hoạt tại các điểm du lịch. Thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng tài nguyên du lịch và quản lý môi trường tại các điểm du lịch.
Thứ hai, tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong du lịch. Các doanh nghiệp cần chuyển đổi hoạt động kinh doanh sang mô hình số, thông qua các công cụ như sàn giao dịch trực tuyến, hệ thống đặt dịch vụ thông minh, thanh toán không tiền mặt và chăm sóc khách hàng tự động. Cần tăng cường đào tạo nhân lực số để nâng cao năng lực sử dụng công nghệ nhanh chóng. Tỉnh cần ban hành các chính sách hỗ trợ tài chính, công nghệ cho chuyển đổi số, thúc đẩy hợp tác với doanh nghiệp trong xây dựng hệ sinh thái du lịch số. Kết nối doanh nghiệp kết hợp linh hoạt giữa hình thức trực tiếp và trực tuyến, các chương trình khảo sát điểm đến, sản phẩm du lịch.
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững. Đào tạo kỹ năng cho người dân, như: kỹ năng làm dịch vụ, ngoại ngữ, ứng xử với du khách nâng cao chất lượng phục vụ và bảo đảm tính chuyên nghiệp. Phát triển các sản phẩm đặc trưng như ẩm thực dân tộc, nghề thủ công truyền thống, lễ hội bản địa tạo sinh kế bền vững cho người dân. Có cơ chế phân phối lợi ích công bằng giữa cộng đồng, chính quyền và doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng thương mại hóa hoặc khai thác du lịch không kiểm soát.
Thứ tư, tăng cường các hoạt động truyền thông, quảng bá xúc tiến du lịch. Mở rộng giới thiệu các sản phẩm du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp, trải nghiệm văn hóa bản địa ở các địa phương còn ít được biết đến. Chuẩn bị tổ chức các sự kiện phát động, kích cầu thị trường, hội chợ du lịch, hội thảo giới thiệu điểm đến, kết nối doanh nghiệp kết hợp linh hoạt giữa hình thức trực tiếp và trực tuyến bảo đảm tính thực chất trong quảng bá, tránh “hình ảnh đẹp nhưng trải nghiệm không tương xứng”.
Thứ năm, thực thi hiệu quả việc bảo vệ môi trường tại các “điểm nóng” du lịch. Tăng cường công tác quản lý rác thải tại các điểm du lịch trọng yếu bằng việc đầu tư hệ thống thu gom, phân loại và xử lý rác thải đạt chuẩn, đồng thời lắp đặt thùng rác công cộng hợp lý, phù hợp với lưu lượng khách. Thiết lập các tổ giám sát cộng đồng hoặc tổ vệ sinh du lịch với sự tham gia của người dân địa phương nhằm duy trì vệ sinh môi trường hàng ngày. Đẩy mạnh truyền thông và giáo dục nâng cao ý thức cho du khách và doanh nghiệp về du lịch có trách nhiệm. Có thể thí điểm các mô hình “du lịch không rác thải” tại một số bản du lịch cộng đồng, kết hợp với các hoạt động trải nghiệm gắn với bảo vệ môi trường.
6. Kết luận
Phát triển du lịch bền vững là xu hướng tất yếu trong hội nhập quốc tế. Với vị trí địa lý chiến lược, cảnh quan thiên nhiên đa dạng và bản sắc văn hóa phong phú, Lào Cai có nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành điểm đến hấp dẫn. Tuy nhiên, quá trình phát triển du lịch của tỉnh vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức. Để phát triển bền vững, cần nhận diện đầy đủ những vấn đề tồn tại và xây dựng giải pháp tổng thể, bảo đảm sự cân bằng giữa ba yếu tố: kinh tế – xã hội và môi trường. Việc thực hiện hiệu quả các giải pháp này không chỉ giúp nâng cao đóng góp của du lịch vào tăng trưởng kinh tế – xã hội, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo mà còn góp phần bảo tồn giá trị văn hóa và tài nguyên thiên nhiên đặc trưng của Lào Cai.
Chú thích:
1. Atonio Machado (2003). Du lịch và phát triển bền vững (Tourism and Sustainable Development) – Duwjans “Xây dựng năng lược cho phát triển du lịch ở Việt Nam”. VNAT và FUNDESO.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị Quốc gia.
3. Hunter C., Green H. (1995). National and Regional Tourism planning: Methologdogies and Case Studies. Routledge, London.
4. Luật Du lịch năm 2017.
5, 6. Lào Cai có 41 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. https://baolaocai.vn/lao-cai-co-41-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia-post384264.html.
7. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch bản địa. https://baolaocai.vn/nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-du-lich-ban-dia-post402452.html.
8. Yên Bái đào tạo nghề cho trên 12500 lao động thuộc lĩnh vực du lịch và dịch vụ. https://baoyenbai.com.vn/13/350900/yen-bai-dao-tao-nghe-cho-tren-12500-lao-dong-thuoc-linh-vuc-du-lich-va-dich-vu.aspx.
9. Bài cuối: Cải thiện chất lượng các cơ sở lưu trú. https://baolaocai.vn/bai-cuoi-cai-thien-chat-luong-cac-co-so-luu-tru-post385283.html.
10. Yên Bái có trên 560 cơ sở lưu trú. https://baoyenbai.com.vn/226/344831/yen-bai-co-tren-560-co-so-luu-tru.aspx.
11. Hợp nhất Lào Cai và Yên Bái: triển vọng tích cực phát triển du lịch xanh. https://bvhttdl.gov.vn/hop-nhat-lao-cai-va-yen-bai-trien-vong-tich-cuc-phat-trien-du-lich-xanh-20250611105058023.htm.
12. Lào Cai đẩy mạnh liên kết phát triển đa dạng hóa sản phẩm du lịch phục vụ khách quốc tế. https://bvhttdl.gov.vn/lao-cai-day-manh-lien-ket-phat-trien-da-dang-hoa-san-pham-du-lich-phuc-vu-khach-quoc-te-20250428172127075.htm.
13. https://vietnamtourism.gov.vn/printer/62584?type=1
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Thị Tuyết Nga, Nguyễn Thu Hiền (2020). Nghiên cứu các tiêu chí đánh giá và những nhân tố tác động đến phát triển du lịch bền vững tại Việt Nam. Tạp chí Công Thương, số 16/2020.
2. Vũ Mạnh Cường (2023). Phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận theo hướng bền vững. Tạp chí Công Thương, số 11/2023.
3. Lê Anh (2022). Phát triển du lịch theo hướng thống nhất, xanh và bền vững. https://dangcongsan.vn/kinh-te/phat-trien-du-lich-theo-huong-thong-nhat-xanh-va-ben-vung-628704.html.



