“Chính sách kinh tế mới – NEP” của Lênin và ý nghĩa đối với việc phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay

TS. Hoàng Thanh Sơn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – “Chính sách kinh tế mới – NEP” của Lênin là một nội dung mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không chỉ đối với nước Nga Xô viết đầu thế kỷ XX mà còn có ý nghĩa vận dụng đối với nhiều quốc gia đang trong thời kỳ quá độ, trong đó có Việt Nam. Vận dụng “Chính sách kinh tế mới – NEP” của Lênin vào thực tiễn Việt Nam không chỉ góp phần vào phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thị trường mà còn giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Từ khóa: Chính sách kinh tế mới – NEP, kinh tế tư nhân ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, kỷ nguyên vươn mình.

1. Đặt vấn đề

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, một trong những đóng góp lý luận và thực tiễn có ý nghĩa lớn của V.I. Lênin là “Chính sách kinh tế mới – NEP”. Đây là bước chuyển đổi linh hoạt và kịp thời nhằm cứu vãn nền kinh tế Xô viết sau nội chiến, đồng thời, thể hiện sự sáng tạo của Lênin trong việc vận dụng quy luật kinh tế vào thực tiễn xây dựng xã hội mới. Đối với Việt Nam, gần 40 năm Đảng tiến hành cương lĩnh đổi mới đất nước, đến nay, đã và đang chứng minh tính đúng đắn của đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng. Việc nghiên cứu “Chính sách kinh tế mới” (NEP) của Lênin giúp làm sáng tỏ thêm những luận cứ lý luận và thực tiễn cho việc phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay.

2. Một số vấn đề lý luận của Lênin về phát triển kinh tế tư nhân

Theo lý luận của C.Mác để chuyển đổi từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác cần phải có sự thay đổi về chất, đồng thời, phải trải qua một khâu trung gian hay con gọi là thời kỳ quá độ. C.Mác cho rằng “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”1.

Kế thừa tư tưởng của C.Mác, V.I. Lênin vạch rõ: “Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng phải thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế – xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó”2. Xuất phát từ quan điểm của C.Mác cùng với điều kiện cụ thể của nước Nga, Lênin đã xây dựng “Chính sách kinh tế mới – NEP”. Nội dung của chính sách kinh tế mới tập trung vào một số vấn đề sau:

Thứ nhất, chính sách kinh tế mới nhằm khôi phục quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Trước nguy cơ đói nghèo, nổi loạn và sụp đổ kinh tế, Lênin nhận ra rằng, cần phải khôi phục quy luật thị trường, nhất là quan hệ hàng hóa – tiền tệ như một công cụ điều tiết kinh tế trong thời kỳ quá độ. Thừa nhận lại vai trò của thị trường, thương mại và các hình thức trao đổi hàng hóa. Theo V.I.Lênin “Vì muốn cải thiện đời sống của công nhân thì phải có bánh mỳ và nhiên liệu…, thế mà chúng ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mì, tăng thêm dự trữ và vận tải nhiên liệu bằng cách cải thiện đời sống của nông dân bằng cách nâng cao lực lượng sản xuất của họ. Phải bắt đầu từ nông dân”3. Do vậy, cần phải sử dụng thương mại tự do, tiền tệ, tín dụng…

Theo Lênin, phục hồi thương nghiệp, phục hồi lưu thông hàng hóa thì phải thừa nhận rằng hàng hóa, quan hệ hàng hóa và thị trường là những yếu tố tất yếu, là cái cầu nối giữa nông dân và nhà nước công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Như vậy, khác với chính sách cộng sản thời chiến loại bỏ thị trường, thừa nhận vai trò của hàng hóa, tiền tệ và trao đổi hàng hóa – tiền tệ như một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội.

Để thực hiện việc khôi phục quan hệ hàng hóa – tiền tệ, chính quyền Xô viết đã ban hành nhiều chủ trương cụ thể, trong đó nổi bật là bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực, thay thế bằng thuế lương thực cố định bằng hiện vật, cho phép nông dân được tự do sử dụng phần thặng dư sau thuế để buôn bán, trao đổi trên thị trường. Việc cho phép các hình thức trao đổi hàng hóa tự do, hợp pháp hóa thương nghiệp tư nhân, mở lại chợ và khuyến khích các hình thức hợp tác xã tiêu dùng đã tạo điều kiện để các quan hệ hàng hóa – tiền tệ được phục hồi, thúc đẩy sản xuất phát triển. Mặt khác, Nhà nước cho phép tư nhân được mở xí nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt trong các lĩnh vực phi quốc phòng, tiêu dùng, dịch vụ…, cho thuê một số xí nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả cho tư nhân quản lý. Những chính sách này đã tạo ra động lực mới cho các thành phần kinh tế khác nhau cùng phát triển, khơi thông các dòng chảy hàng hóa và tiền tệ trong xã hội, tạo nên sự phục hồi đáng kể của nền kinh tế.

“Chính sách kinh tế mới – NEP” cũng khôi phục vai trò của đồng tiền với tư cách là phương tiện thanh toán, đo lường giá trị và tích lũy, thay thế cơ chế “trao đổi hiện vật” thời chiến. Nhà nước Xô viết đã tiến hành cải cách tài chính – tiền tệ, phát hành tiền mới, thiết lập hệ thống ngân hàng và các cơ chế tín dụng phù hợp với điều kiện mới. Những biện pháp này không chỉ thúc đẩy lưu thông hàng hóa mà còn tạo cơ sở cho sản xuất mở rộng, đầu tư, trao đổi giữa các vùng, khôi phục sự liên kết trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, nhà nước giữ vai trò điều tiết thị trường thông qua thương nghiệp quốc doanh, kiểm soát giá cả, phân phối vật tư chiến lược…, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế trong điều kiện có sự tồn tại của thị trường.

“Chính sách kinh tế mới – NEP” là bước tiến về mặt chiến lược, bởi nó xuất phát từ thực tiễn đời sống kinh tế – xã hội, tôn trọng quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lênin không coi thị trường và quan hệ hàng hóa – tiền tệ là đối lập tuyệt đối với chủ nghĩa xã hội mà cho rằng: không phủ nhận thị trường. Chủ nghĩa xã hội không phải là sự xóa bỏ ngay lập tức hàng hóa và tiền tệ. Theo đó, việc khôi phục và sử dụng các quan hệ hàng hóa – tiền tệ không có nghĩa là đi ngược lại chủ nghĩa xã hội, mà là phương tiện để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách thực chất và hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện vật chất – kỹ thuật còn lạc hậu của nước Nga thời kỳ đó.

Kết quả thực hiện “Chính sách kinh tế mới – NEP” cho thấy hiệu quả rõ rệt: sản xuất nông nghiệp và công nghiệp nhanh chóng phục hồi, lương thực được cải thiện, hàng hóa phong phú, đời sống nhân dân được nâng cao, thương nghiệp sôi động trở lại. Tầng lớp nông dân trung lưu và thương nhân, nhà công thương nghiệp tư nhân xuất hiện trở lại, góp phần khơi dậy các nguồn lực xã hội. Tuy nhiên, “Chính sách kinh tế mới – NEP” cũng đặt ra những thách thức, trong đó có sự phân hóa xã hội, xu hướng tư hữu hóa trong một bộ phận dân cư, nguy cơ xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa nếu thiếu sự kiểm soát. Do đó, Lênin nhấn mạnh: Nhà nước cần “nắm lấy cái tay cầm của thương nghiệp quốc doanh” để điều tiết thị trường, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.

Thứ hai, “Chính sách kinh tế mới – NEP”  cho phép kinh tế tư nhân phát triển có kiểm soát: Nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, thương mại và dịch vụ.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, “Chính sách kinh tế mới – NEP” tạo điều kiện cho nông dân từ phát triển để họ tự suy nghĩ trên luống cày của họ, đồng thời “đem lại cho nông dân một sự khuyến khích, kích thích về mặt kinh tế”4 thay thế chế độ trưng thu lương thực bằng thuế lương thực cố định; phần sản phẩm vượt thuế nông dân được tự do buôn bán trên thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân giao thương hàng hóa sản xuất ra. “Giữa nông dân và công nhân, tức là giữa nông nghiệp và công nghiệp không thể có sự liên hệ kinh tế nào khác, ngoài việc trao đổi, buôn bán. Thực chất của vấn đề là ở đó”5. Chính sách này tạo động lực trực tiếp thúc đẩy sản xuất nông nghiệp vì người nông dân có quyền sở hữu sản phẩm của mình và được tham gia trao đổi hàng hóa. Kinh tế hộ gia đình trở lại vị trí trung tâm trong sản xuất nông nghiệp, giúp khôi phục sản lượng lương thực và giải quyết nạn đói. Tầng lớp nông dân trung lưu, đặc biệt là những nông dân giàu có và có khả năng tích lũy đã quay lại sản xuất mạnh mẽ, góp phần vào quá trình hồi sinh nông thôn Nga.

Trong thương mại, cho phép thương nhân tư nhân được hoạt động trở lại. Các chợ tư nhân được khuyến khích mở cửa, thương nghiệp tư doanh được phép cạnh tranh với thương nghiệp quốc doanh. Theo Lênin, không có sự phát triển thương nghiệp, không thể nào nối được nông dân với công nghiệp, không thể phát triển được sản xuất. Nhờ vậy, thị trường hàng hóa sôi động trở lại, lưu thông hàng hóa được cải thiện rõ rệt, kéo theo sự phục hồi của các ngành công – nông nghiệp.

Trong lĩnh vực dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp, nhà nước cho phép các doanh nghiệp nhỏ và vừa được tư nhân sở hữu, quản lý, đặc biệt trong các ngành phi quốc phòng và phục vụ tiêu dùng. Nhiều doanh nhân tư nhân xuất hiện, đóng vai trò tích cực trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ và giải quyết việc làm cho người dân. Mặc dù có sự phân hóa xã hội, chính quyền Xô viết vẫn chủ trương kiểm soát chặt chẽ các hoạt động kinh tế tư nhân thông qua thuế khoá, quy định pháp luật và hệ thống thương nghiệp quốc doanh, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong những ngành then chốt (công nghiệp nặng, ngân hàng, giao thông…).

Thứ ba, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong những ngành then chốt.

Một nguyên tắc xuyên suốt của “Chính sách kinh tế mới – NEP” là kết hợp phát triển có kiểm soát kinh tế tư nhân với việc giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đặc biệt trong các ngành công nghiệp nặng, ngân hàng, giao thông vận tải và đối ngoại. Đây chính là sự phân định ranh giới giữa khu vực kinh tế mang tính tư bản nhà nước với khu vực kinh tế tư nhân trong cơ cấu nền kinh tế hỗn hợp thời kỳ quá độ.

Trong lĩnh vực công nghiệp nặng, Nhà nước tiếp tục duy trì chế độ sở hữu toàn dân và kiểm soát trực tiếp các ngành chiến lược, như: luyện kim, chế tạo máy, khai thác khoáng sản, năng lượng… Đây là những lĩnh vực có vai trò quyết định đối với an ninh quốc gia, tiềm lực quốc phòng và định hướng lâu dài cho công nghiệp hóa. Theo quan điểm của Lênin, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải nắm những đỉnh cao chỉ huy của nền kinh tế để dẫn dắt sự phát triển chung. Việc duy trì vai trò thống lĩnh của khu vực công nghiệp nhà nước trong “Chính sách kinh tế mới – NEP” không chỉ bảo đảm tính kế hoạch và định hướng của nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để từng bước tích lũy tư liệu sản xuất phục vụ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong lĩnh vực ngân hàng và tín dụng, hệ thống ngân hàng quốc gia tiếp tục đặt dưới sự kiểm soát tuyệt đối của nhà nước. Việc giữ vai trò độc quyền trong hoạt động phát hành tiền, điều tiết tín dụng và kiểm soát các giao dịch tài chính giúp chính quyền Xô viết quản lý vĩ mô nền kinh tế, hạn chế sự thao túng của tư bản tư nhân và ngăn chặn các biểu hiện lạm phát, đầu cơ tài chính. Cùng với đó, nhà nước cũng sử dụng hệ thống tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp quốc doanh, hợp tác xã và kiểm soát hoạt động của các thành phần kinh tế khác.

Trong lĩnh vực giao thông vận tải và thương mại đối ngoại, nhà nước giữ quyền kiểm soát toàn diện. Việc quốc hữu hóa các tuyến đường sắt, cảng biển, hệ thống vận chuyển chiến lược cho phép nhà nước điều phối dòng lưu thông hàng hóa, phục vụ cho sự phát triển cân đối giữa các vùng và bảo đảm quốc phòng – an ninh. Đồng thời, thương mại đối ngoại là độc quyền của nhà nước, giúp bảo vệ nền kinh tế non trẻ khỏi sự phụ thuộc và chi phối từ bên ngoài, đồng thời đảm bảo nguồn thu ngoại tệ và tài nguyên cho công cuộc tái thiết đất nước.

“Chính sách kinh tế mới – NEP”, dù cho phép sự phát triển có kiểm soát của kinh tế tư nhân, Nhà nước Xô viết vẫn giữ vững vai trò chủ đạo trong các ngành then chốt, như: công nghiệp nặng, ngân hàng, giao thông, thương mại đối ngoại… nhằm định hướng sự phát triển của nền kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các thành quả cách mạng và xây dựng nền móng vững chắc cho công cuộc công nghiệp hóa trong tương lai.

3. Ý nghĩa đối với việc phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay

Từ Đại hội VI đến nay, đặc biệt trong Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, Đảng ta xác định phát triển kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Từ tư tưởng của Lênin về “Chính sách kinh tế mới – NEP” mang lại những ý nghĩa thiết thực sau:

Một là, thừa nhận vai trò tất yếu của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong hiện nay với lực lượng sản xuất chưa phát triển cao. Do đó, việc phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, là điều kiện khách quan và cần thiết. Tư tưởng “Chính sách kinh tế mới – NEP” giúp nhận thức rõ sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân không đi ngược lại chủ nghĩa xã hội nếu có sự kiểm soát và định hướng đúng đắn của nhà nước. Đảng ta xác định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, …kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng”6.

Hai là, khuyến khích kinh tế tư nhân nhưng giữ vững vai trò điều tiết của nhà nước. Lênin luôn nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong các ngành then chốt. Từ đó rút ra bài học cho Việt Nam: phát triển kinh tế tư nhân nhưng không buông lỏng quản lý, cần bảo đảm sự điều tiết vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa; đồng thời, giữ vững quyền kiểm soát trong các lĩnh vực chiến lược, như năng lượng, tài chính, quốc phòng, an ninh. “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể”7.

Ba là, tạo môi trường pháp lý, chính sách thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh. Từ “ Chính sách kinh tế mới – NEP” cho thấy, khi có cơ chế linh hoạt và chính sách phù hợp, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước có thể phục hồi và phát triển rất nhanh, góp phần thúc đẩy tổng sản phẩm xã hội. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ vốn, đổi mới sáng tạo, đồng thời xử lý nghiêm các hành vi trục lợi, đầu cơ, gian lận thị trường để kinh tế tư nhân phát triển bền vững, gắn với lợi ích dân tộc.

Bốn là, bảo đảm sự hài hòa giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của Đảng, nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hỗn hợp, gồm các thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể – tiểu chủ, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả đều bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại, phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong các thành phần đó, kinh tế tư nhân ngày càng được chú trọng, khuyến khích phát triển trên nhiều phương diện, từ chính sách pháp luật đến hỗ trợ vốn, đất đai, thuế, đào tạo nguồn nhân lực và cải cách thủ tục hành chính. Đảng, Nhà nước cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nhất là các doanh nghiệp tư nhân có năng lực đổi mới sáng tạo, có khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Việc phát triển kinh tế tư nhân trong khuôn khổ nền kinh tế hỗn hợp không đồng nghĩa với buông lỏng quản lý, mà phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và giám sát của Nhân dân. Nhà nước giữ vai trò điều tiết vĩ mô, tạo môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch, đồng thời, bảo đảm an sinh xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa của toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, trong mô hình kinh tế hỗn hợp, kinh tế tư nhân không đối lập với kinh tế nhà nước, mà là một bộ phận hữu cơ, cùng phát triển, bổ trợ cho nhau để huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển quốc gia.

Chủ trương phát triển nền kinh tế hỗn hợp với việc coi trọng vai trò của kinh tế tư nhân thể hiện tư duy đổi mới, thực tiễn và linh hoạt của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với yêu cầu phát triển trong thời kỳ hội nhập và công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

4. Kết luận

“Chính sách kinh tế mới – NEP” của Lênin là một biểu hiện sinh động của tư duy cách mạng sáng tạo, linh hoạt, không giáo điều, máy móc. Việc thừa nhận vai trò của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho thấy tính thực tiễn cao và quan điểm biện chứng sâu sắc. Đối với Việt Nam hiện nay, “Chính sách kinh tế mới – NEP” là một bài học lịch sử có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc phát huy vai trò động lực của khu vực kinh tế tư nhân cần đi liền với tăng cường năng lực quản lý nhà nước, bảo đảm công bằng, hiệu quả và ổn định trong phát triển bền vững.

Chú thích:
1. C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập (1995). Tập 13. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 15 – 16.
2. V.I. Lê-nin toàn tập (2006). Tập 36. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 363.
3, 4. V.I.Lênin toàn tập (2006). Tập 43. H. NXB. Chính trị quốc gia,  tr. 262 – 263; 86.
5. . V.I.Lênin toàn tập (2006). Tập 44. H. NXB. Chính trị quốc gia,  tr. 378.
6, 7. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.