ThS. Nguyễn Thị Thùy Mai
Phân hiệu Học viện Hành chính và Quản trị công tại tỉnh Đắk Lắk
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo là yêu cầu cấp bách đối với khu vực Tây Nguyên nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh. Bài viết tập trung phân tích hoạt động khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo khu vực Tây Nguyên, từ đó, đề xuất một số giải pháp phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh mới.
Từ khoá: Đổi mới sáng tạo; khoa học – công nghệ; kinh tế – xã hội; quốc phòng – an ninh; khu vực Tây Nguyên.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh là xu thế tất yếu, yêu cầu sống còn cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia và từng vùng lãnh thổ. Tây Nguyên với vị trí địa chiến lược đặc biệt, được ví như “mái nhà Đông Dương”, đóng vai trò trọng yếu trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, giữ vững quốc phòng – an ninh; đồng thời, sở hữu tiềm năng dồi dào về nông – lâm nghiệp, tài nguyên khoáng sản, năng lượng tái tạo và đa dạng văn hóa dân tộc. Hiện nay, khu vực Tây Nguyên gồm: Quảng Ngãi, Gia Lai, Lâm Đồng, Đắk Lắk.
Tuy nhiên, Tây Nguyên vẫn là vùng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo. Hệ sinh thái khoa học – công nghệ còn yếu, năng lực nghiên cứu và ứng dụng tại chỗ chưa cao, tỷ lệ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất và đời sống còn thấp. Sự liên kết giữa các chủ thể đổi mới sáng tạo, bao gồm: Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và người dân vẫn còn lỏng lẻo. Trong khi đó, khu vực này đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, như: biến đổi khí hậu, suy thoái rừng, khan hiếm nước, di cư tự do, tệ nạn xã hội và nguy cơ mất ổn định an ninh phi truyền thống. Trước thực tiễn đó, việc thúc đẩy phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ là lựa chọn chiến lược mà còn là giải pháp cốt lõi để nâng cao năng lực nội sinh, khai thác hiệu quả tiềm năng sẵn có, thúc đẩy tăng trưởng xanh, cải thiện đời sống người dân và bảo đảm vững chắc quốc phòng – an ninh khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh phát triển mới.
2. Thực tiễn hoạt động khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo ở khu vực Tây Nguyên
Nhận thức rõ vai trò động lực của khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng định hướng chiến lược cho lĩnh vực này. Nổi bật là Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương về phát triển khoa học – công nghệ tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về chủ trương tham gia cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đề ra chính sách hỗ trợ chuyển đổi số cho các địa phương khó khăn như Tây Nguyên; khuyến khích phát triển nông nghiệp thông minh, quản trị tài nguyên bằng công nghệ số và ứng phó với an ninh phi truyền thống. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến 2025, định hướng đến 2030, đặt mục tiêu đưa Tây Nguyên trở thành vùng tiên phong ứng dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp, giáo dục, y tế và quản lý tài nguyên. Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050, xác định Tây Nguyên là vùng trọng điểm về nông nghiệp sinh thái và năng lượng tái tạo. Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, ưu tiên phát triển Tây Nguyên thành trung tâm đổi mới sáng tạo, khuyến khích các mô hình công nghệ trong bảo vệ rừng, nông nghiệp hữu cơ và năng lượng sạch. Gần đây nhất là Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06/10/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thực tế hiện nay, hoạt động khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Tây Nguyên đã đạt được những kết quả tích cực:
(1) Về nông – lâm nghiệp công nghệ cao.
Tây Nguyên là vùng trọng điểm nông – lâm nghiệp quốc gia với các sản phẩm chủ lực, như: cà phê, hồ tiêu, cao su, rau, hoa công nghệ cao. Nhiều tỉnh như Lâm Đồng và Đắk Lắk đã phát triển mạnh các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, như: tưới nhỏ giọt, cảm biến thông minh, hệ thống nhà kính và truy xuất nguồn gốc bằng mã QR. Đặc biệt trong năm 2023, Lâm Đồng có hơn 65.300 ha canh tác ứng dụng công nghệ cao, chiếm 21,8% tổng diện tích1. Một số giống cây trồng biến đổi gen, giống chịu hạn, kháng sâu bệnh cũng được ứng dụng rộng rãi, như: giống cà phê TRS1, giống lúa LH12. Tuy nhiên, việc mở rộng mô hình này còn gặp khó khăn do còn hạn chế về nguồn lực tài chính, thiếu cơ chế liên kết chuỗi và thiếu nhân lực khoa học – công nghệ tại chỗ.
(2) Về năng lượng tái tạo và chuyển đổi xanh.
Tỉnh Đắk Lắk là một trong những tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên đang dần trở thành một trong những trung tâm phát triển năng lượng tái tạo lớn của cả nước nhờ lợi thế tự nhiên về bức xạ mặt trời cao và điều kiện gió thuận lợi. Tính đến năm 2023, khu vực Tây Nguyên đã thu hút nhiều dự án điện mặt trời và điện gió quy mô lớn. Trong đó, nổi bật là Trang trại Phong điện Tây Nguyên với công suất 28,8 MW, dự án Điện mặt trời Sêrêpốk 1 (100 MWp), Điện mặt trời Long Thành (50 MWp), cùng nhiều dự án điện sinh khối sử dụng phụ phẩm nông nghiệp đang được triển khai tại nhiều tỉnh.
Ngoài ra, tỉnh Đắk Lắk đã xây dựng kế hoạch phát triển trung tâm năng lượng tái tạo Tây Nguyên, với tầm nhìn đến năm 2030 – 2045. Các dự án điện gió giai đoạn tiếp theo như HBRE giai đoạn 2 và 3 được kỳ vọng sẽ bổ sung thêm từ 110 đến 300 MW công suất phát điện từ nguồn sạch2. Việc khai thác các nguồn năng lượng này không chỉ góp phần giảm phát thải khí nhà kính mà còn mở ra cơ hội chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững và xanh hóa phát triển vùng. Tuy nhiên, việc phát triển năng lượng tái tạo vẫn đối mặt với nhiều thách thức, như: hệ thống truyền tải điện chưa đồng bộ, cơ chế giá điện chưa ổn định và thiếu sự kết nối với doanh nghiệp công nghệ trong vùng. Việc hoàn thiện cơ chế chính sách, ưu đãi đầu tư và tăng cường liên kết vùng là yếu tố then chốt để hiện thực hóa mục tiêu phát triển năng lượng bền vững tại khu vực này.
(3) Về ứng dụng công nghệ trong bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Bên cạnh phát triển năng lượng, các địa phương cũng chú trọng ứng dụng công nghệ hiện đại trong bảo vệ tài nguyên và môi trường. Nhiều hệ thống GIS, viễn thám, trí tuệ nhân tạo (AI) và thiết bị bay không người lái đã được triển khai để giám sát tài nguyên rừng, cảnh báo cháy rừng và phát hiện sớm các hành vi vi phạm. Hệ thống camera giám sát rừng kết hợp phần mềm quản lý rừng điện tử đã góp phần đáng kể làm giảm số vụ xâm hại rừng trong những năm gần đây. Một số dự án hợp tác quốc tế cũng đang hỗ trợ số hóa bản đồ đất, tài nguyên nước và xây dựng hệ thống cảnh báo sớm thiên tai, nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu khu vực Tây Nguyên.
(4) Về giáo dục, y tế và an sinh xã hội trong chuyển đổi số.
Thực hiện Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, nhiều tỉnh khu vực Tây Nguyên đã triển khai các nền tảng giáo dục trực tuyến, học liệu số, STEM cho học sinh vùng sâu, vùng xa. Trường Đại học Tây Nguyên, Đại học Đà Lạt là những đơn vị tiên phong kết nối chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực khoa học – công nghệ phục vụ phát triển vùng. Trong lĩnh vực y tế, các mô hình bệnh viện số, khám, chữa bệnh từ xa tại Đắk Lắk đang từng bước mở rộng, giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao.
(5) Về khoa học – công nghệ phục vụ quốc phòng – an ninh.
Tây Nguyên là vùng có địa bàn chiến lược về quốc phòng – an ninh. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày01/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và Chiến lược quốc phòng toàn dân đã xác định rõ việc ứng dụng công nghệ vào giám sát lãnh thổ, quản lý biên giới, phòng, chống di cư tự do và các nguy cơ an ninh phi truyền thống đã được chú trọng. Một số công nghệ, như: định vị vệ tinh, cảm biến biên giới, hệ thống nhận dạng tự động (AIS) đang được áp dụng thử nghiệm tại tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia. Tuy nhiên, tính liên kết và mức độ ứng dụng còn thấp, thiếu cơ sở dữ liệu tích hợp và chưa có trung tâm điều phối khoa học – công nghệ phục vụ an ninh vùng.
Nhìn chung, Tây Nguyên đã có những bước chuyển mình nhất định trong phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế về thể chế, hạ tầng, nhân lực và cơ chế tài chính. Việc thực thi đầy đủ các nghị quyết và chiến lược của Đảng, Nhà nước; đồng thời, tăng cường đầu tư chiều sâu, phát huy liên kết vùng và nâng cao vai trò của doanh nghiệp, viện -trường là yêu cầu cấp thiết để khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực phát triển bền vững cho khu vực Tây Nguyên.
3. Kiến nghị một số giải pháp
Một là, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường quản lý nhà nước.
Nhà nước cần nghiên cứu và sớm ban hành các cơ chế, chính sách linh hoạt, đặc thù nhằm thúc đẩy hoạt động khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo tại khu vực Tây Nguyên. Cần tập trung nguồn lực, đưa ra các quyết định nhanh chóng, linh hoạt để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các chính sách, chương trình, dự án khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo. Các chính sách nên được thiết kế phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội, văn hóa của từng địa phương sau khi sáp nhập bảo đảm tính đồng bộ và khả thi. Chính sách cần có tính đột phá để tạo lợi thế cạnh tranh, thu hút đầu tư và khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ. Điều này bao gồm việc cung cấp các ưu đãi về thuế, đất đai và tín dụng cho các dự án công nghệ cao và các startup đổi mới sáng tạo.
Mô hình chính quyền địa phương hai cấp đi vào hoạt động cần rà soát, đơn giản hóa các quy trình, thủ tục liên quan đến thành lập doanh nghiệp, đăng ký dự án khoa học – công nghệ và các hoạt động khởi nghiệp nhằm giảm bớt gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp và nhà khoa học, tạo môi trường thông thoáng, minh bạch để họ có thể yên tâm đầu tư và cống hiến.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Việc nâng cao dân trí và trình độ kỹ năng cho toàn thể người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số cần được chú trọng. Các chương trình phổ biến kiến thức khoa học – kỹ thuật, hướng dẫn kỹ năng lao động mới, ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống hằng ngày cần được triển khai sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân tiếp cận tri thức mà còn trang bị cho họ những công cụ cần thiết để nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống.
Đẩy mạnh đào tạo và thu hút nhân tài vào các lĩnh vực ưu tiên, như: khoa học – công nghệ thông tin, quản lý nông nghiệp công nghệ cao và kinh tế số. Các chương trình đào tạo tại chỗ cần được nâng cấp, đồng bộ với nhu cầu thị trường lao động và định hướng phát triển của vùng. Song song đó, việc ban hành các chính sách ưu đãi hấp dẫn là vô cùng cần thiết để thu hút các chuyên gia, nhà khoa học giỏi, đặc biệt là những người con của Tây Nguyên đã thành danh ở các trung tâm lớn hoặc nước ngoài trở về đóng góp cho quê hương. Những ưu đãi này có thể bao gồm hỗ trợ về nhà ở, điều kiện làm việc, cơ hội nghiên cứu và phát triển sự nghiệp.
Ba là, nâng cao năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ.
Để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của Tây Nguyên trong bối cảnh mới sau khi sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh (theo Nghị quyết số 2020/2025/QH 15 ngày 12/6/2025), việc nâng cao năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ đóng vai trò cực kỳ quan trọng, là nền tảng vững chắc cho cả kinh tế và quốc phòng – an ninh. Trước hết, cần ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực mũi nhọn phù hợp với lợi thế đặc thù của vùng. Điều này có nghĩa là tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao và công nghệ sinh học trong nông nghiệp, đặc biệt là đối với các cây công nghiệp chủ lực, như: cà phê, hồ tiêu, cao su và các loại cây ăn quả đặc sản, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Đồng thời, việc phát triển các vùng dược liệu bản địa quý hiếm, ứng dụng khoa học – công nghệ để tạo ra sản phẩm có giá trị cao từ những loại cây này cũng là một hướng đi đầy tiềm năng.
Việc phát triển công nghệ chế biến sâu là vô cùng cấp thiết để nâng cao giá trị gia tăng cho nông, lâm sản và các sản phẩm từ bauxite, alumin, nhôm… giúp Tây Nguyên không chỉ xuất khẩu nguyên liệu thô mà còn tạo ra các sản phẩm tinh chế có giá trị cao hơn. Mặt khác, trước những thách thức của biến đổi khí hậu, cần tăng cường nghiên cứu thích ứng biến đổi khí hậu và phát triển nông nghiệp thông minh, bền vững; đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ năng lượng tái tạo, như: điện mặt trời, điện gió nhằm bảo đảm nguồn cung năng lượng và phát triển bền vững cho vùng.
Bên cạnh đó, để hiện thực hóa các mục tiêu này, việc xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu như phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu tại các trường đại học, viện nghiên cứu là yếu tố không thể thiếu, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ.
Bốn là, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.
Tây Nguyên hiện đang có sự bứt phá và phát triển bền vững, bên cạnh nâng cao năng lực khoa học – công nghệ, việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp là một trụ cột không thể thiếu. Để đạt được điều này, việc xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh mẽ là nhiệm vụ trọng tâm. Hệ sinh thái này không chỉ là tập hợp đơn thuần các cá nhân hay tổ chức mà là một mạng lưới liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước (đặc biệt là thông qua cơ chế hoạt động của mô hình chính quyền hai cấp tỉnh và cấp xã mới), các doanh nghiệp với nhu cầu đổi mới và nguồn lực đầu tư, các viện nghiên cứu và trường đại học với tri thức và công nghệ cùng với các quỹ đầu tư và tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp. Mối liên kết này sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi để các ý tưởng sáng tạo được ươm mầm, phát triển và thương mại hóa.
Cần có những chính sách cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) chủ động đổi mới công nghệ. Nhiều doanh nghiệp trong vùng còn hạn chế về nguồn lực và thông tin để tiếp cận các công nghệ tiên tiến. Do đó, cần có các chương trình hỗ trợ về tài chính, tư vấn kỹ thuật và kết nối chuyển giao công nghệ giúp họ nâng cao năng lực sản xuất, cải thiện chất lượng sản phẩm và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Để hiện thực hóa các ý tưởng sáng tạo, việc phát triển các vườn ươm và không gian sáng tạo (co-working space) là rất cần thiết. Đây sẽ là những nơi cung cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và môi trường làm việc chuyên nghiệp cho các cá nhân, nhóm khởi nghiệp. Các vườn ươm cũng cần có đội ngũ chuyên gia tư vấn, cố vấn giàu kinh nghiệm để hỗ trợ các startup từ giai đoạn ý tưởng đến khi sản phẩm được đưa ra thị trường.
Việc tăng cường liên kết, hợp tác không chỉ trong nội vùng Tây Nguyên mà còn với các vùng kinh tế trọng điểm khác trong nước và quốc tế là hết sức quan trọng. Hoạt động này sẽ giúp Tây Nguyên học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận công nghệ mới, thu hút đầu tư và mở rộng thị trường cho các sản phẩm đặc thù của vùng. Các diễn đàn, hội thảo và chương trình trao đổi khoa học – công nghệ cần được tổ chức thường xuyên để tạo cơ hội kết nối và chia sẻ tri thức.
Năm là, đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ trong bảo đảm quốc phòng – an ninh.
Việc phát triển kinh tế – xã hội phải luôn gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng – an ninh. Các dự án phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo cần được xem xét dưới góc độ an ninh, bảo đảm không tạo ra những lỗ hổng an ninh tiềm tàng. Sự thịnh vượng về kinh tế – xã hội với một đời sống ổn định và phát triển của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số chính là yếu tố cốt lõi để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh nội lực vững chắc để phòng thủ và chống lại các thế lực thù địch.
Ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo trong việc phòng chống các thách thức an ninh phi truyền thống. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và an ninh mạng là những mối đe dọa không ngừng gia tăng. Việc đầu tư vào các công nghệ dự báo sớm thiên tai, hệ thống y tế thông minh và các giải pháp an ninh mạng tiên tiến sẽ giúp Tây Nguyên chủ động hơn trong việc ứng phó với những thách thức này.
4. Kết luận
Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng, việc phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo tại khu vực Tây Nguyên không chỉ là nhiệm vụ chiến lược mà còn là yêu cầu cấp thiết nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng nội sinh, thúc đẩy tăng trưởng xanh, nâng cao chất lượng sống cho người dân và bảo đảm vững chắc quốc phòng – an ninh. Để khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực phát triển bền vững cho Tây Nguyên cần sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp – người dân, cùng với đó là các chính sách đặc thù phù hợp với đặc điểm của vùng. Việc phát triển hạ tầng khoa học – công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đầu tư vào hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ trong bảo đảm quốc phòng – an ninh sẽ là nền tảng vững chắc để Tây Nguyên từng bước trở thành vùng phát triển năng động, xanh, bền vững và hiện đại trong thời kỳ mới.
Chú thích:
1. Lâm Đồng: Phát triển hơn 65.000 ha nông nghiệp công nghệ cao. https://lamdong.gov.vn/sites/doanhnghiep/tintuc/SitePages/Lam-Dong-Phat-trien-hon-65000-ha-nong-nghiep-cong-nghe-cao.aspx
2. Đắk Lắk hướng tới trở thành trung tâm năng lượng tái tạo tại Tây Nguyên với điện gió.https://tapchicongthuong.vn/dak-lak-huong-toi-tro-thanh-trung-tam-nang-luong-tai-tao-tai-tay-nguyen-voi-dien-gio-85044.htm
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2012). Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/ 2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 23-NQ/TW 06/10/2022 về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
4. Bộ Chính trị (2019). Nghị quyết số 52-NQ/TW 27/09/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ (2023). Báo cáo tổng kết hoạt động khoa học, công nghệ khu vực Tây Nguyên năm 2023.
6. Bộ Thông tin và Truyền thông (2024). Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
7. Bộ Quốc phòng (2022). Báo cáo tổng kết các chương trình khoa học – công nghệ phục vụ quốc phòng – an ninh vùng Tây Nguyên.
8. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2023). Chuyên đề Tây Nguyên – Phát triển dựa trên khoa học – công nghệ. Số tháng 6/2023.
9. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến 2025, định hướng đến 2030.
10. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050.
11. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 về việc ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030.
12. Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (2022). Báo cáo mô hình nông nghiệp công nghệ cao tại Tây Nguyên.