Bài 1: Thời cơ và thách thức trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa trong bối cảnh mới

TS. Phạm Văn Phong
Tạp chí Cộng sản

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh Việt Nam đang vươn mình mạnh mẽ trên con đường phát triển và hội nhập, văn hóa được nhìn nhận là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển bền vững. Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt coi trọng vai trò của văn hóa trong công cuộc chấn hưng đất nước. Tuy nhiên, trong kỷ nguyên mới sẽ đi kèm với những thách thức lớn, như: toàn cầu hóa sâu rộng, cuộc cách mạng số và nền kinh tế tri thức đang định hình lại môi trường văn hóa; nguy cơ mai một bản sắc trước làn sóng văn hóa ngoại lai cũng hiện hữu nếu thiếu quản lý hiệu quả. Do đó, vấn đề đặt ra là làm thế nào để nền văn hóa Việt Nam “hòa nhập mà không hòa tan”, phát triển ổn định và bền vững, khẳng định vị thế Việt Nam.

Từ khóa: Quản lý văn hóa, thời cơ và thách thức, ngành Văn hóa, công nghiệp văn hóa, phát triển nền văn hóa Việt Nam.

1. Vai trò quản lý nhà nước đối với phát triển văn hóa trong giai đoạn mới

Quản lý nhà nước về văn hóa được hiểu là sự tác động có tổ chức, có chủ đích của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách và bộ máy nhằm định hướng sự phát triển văn hóa, điều chỉnh các hoạt động văn hóa trong toàn xã hội. Văn hóa bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, kết tinh qua lịch sử, tạo nên bản sắc độc đáo của mỗi dân tộc. Do tầm quan trọng đặc thù của văn hóa, quản lý văn hóa có những điểm khác biệt so với quản lý các lĩnh vực kinh tế – xã hội khác.

Nhà nước là chủ thể quản lý văn hóa, tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương với thẩm quyền được phân cấp rõ ràng còn đối tượng quản lý là toàn bộ lĩnh vực văn hóa cùng các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động văn hóa. Mục tiêu cốt lõi của quản lý nhà nước về văn hóa được xác định là giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân.

Công cụ quản lý văn hóa chủ yếu là hệ thống pháp luật, chính sách và các thiết chế hành chính – không phải sự áp đặt tùy tiện theo ý chí chủ quan. Điều này quán triệt nguyên tắc quản lý bằng pháp luật, kết hợp hài hòa giữa quản lý nhà nước bằng quy phạm pháp luật với phát huy các quy ước, giá trị tự quản của cộng đồng. Nội dung quản lý nhà nước về văn hóa rất rộng, bao gồm: quản lý di sản văn hóa, nghệ thuật, thư viện, điện ảnh, mỹ thuật, quảng bá, báo chí, xuất bản, công nghiệp văn hóa, quảng cáo, tín ngưỡng – tôn giáo… trên cơ sở pháp luật chuyên ngành và các chính sách có liên quan. Quản lý văn hóa còn gắn với việc xây dựng con người, bởi con người vừa là chủ thể sáng tạo văn hóa, vừa là sản phẩm của môi trường văn hóa; phải “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện”1 gắn với phát triển văn hóa, trong đó con người là trung tâm, là mục tiêu và động lực của phát triển.

Vai trò của Nhà nước trong quản lý văn hóa thể hiện ở nhiều phương diện:

(1) Nhà nước giữ vai trò định hướng giá trị, bảo đảm văn hóa phát triển theo đúng quỹ đạo của chủ trương, đường lối của Đảng đã đề ra. Nhà nước đề ra chiến lược, chính sách để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc, thống nhất trong đa dạng.

(2) Nhà nước ban hành các chính sách, pháp luật để bảo vệ di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, gìn giữ tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc. Việc “bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam”2 được xem là nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong bối cảnh hội nhập. Nhà nước coi trọng việc giữ gìn bản sắc như giữ “căn cước” tinh thần của dân tộc, bởi đánh mất bản sắc cũng đồng nghĩa tự đánh mất sức sống và sức mạnh nội sinh của quốc gia.

(3) Nhà nước tạo môi trường, thể chế thuận lợi để văn hóa không ngừng sáng tạo và lan tỏa, hỗ trợ để văn hóa trở thành nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội. Văn hóa được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; các ngành công nghiệp văn hóa được định hướng phát triển thành những ngành kinh tế quan trọng, đóng góp vào GDP và quảng bá hình ảnh quốc gia.

(4) Nhà nước xây dựng bộ máy quản lý văn hóa từ trung ương tới cơ sở, thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Vai trò này bao hàm cả việc kiểm duyệt, thanh tra, xử lý vi phạm để giữ gìn trật tự, kỷ cương trong đời sống văn hóa cũng như hỗ trợ, khuyến khích các nhân tố văn hóa tích cực phát triển.

2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở Việt Nam

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và nỗ lực quản lý, điều hành của Nhà nước, công tác phát triển văn hóa và quản lý văn hóa ở nước ta đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa được thể chế hóa thành pháp luật, chính sách khá đầy đủ.

Trong các Văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã cụ thể hóa, ban hành và triển khai hiệu quả nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách để phát triển văn hóa, phục vụ thiết thực công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.

Hiện nay, đã có 5 luật, 50 nghị định, 14 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và trên 100 thông tư trực tiếp điều chỉnh lĩnh vực văn hóa được ban hành3. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý ngành Văn hóa từng bước được kiện toàn từ trung ương (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng các cơ quan trực thuộc) đến địa phương (sở, phòng văn hóa các cấp), ngày càng nâng cao năng lực quản lý và đổi mới phương thức hoạt động. Nhiều chương trình, đề án phát triển nguồn nhân lực văn hóa đã được triển khai, ví dụ, như: Đề án xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hóa giai đoạn đến 2020, tầm nhìn 2030; Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực văn hóa nghệ thuật ở nước ngoài đến 2030,… nhằm chuẩn hóa và nâng cao chất lượng cán bộ quản lý, đội ngũ văn nghệ sĩ, chuyên gia văn hóa.

Bên cạnh đó, nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho văn hóa không ngừng tăng lên. Nhiều thiết chế văn hóa được xây dựng và nâng cấp, đặc biệt ưu tiên vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Công tác bảo tồn di sản đạt kết quả tích cực, nhiều di tích lịch sử – văn hóa được trùng tu chống xuống cấp, các di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một được quan tâm giữ gìn, nhiều giá trị văn hóa truyền thống được vinh danh (ví dụ: Nhã nhạc cung đình Huế, Dân ca quan họ Bắc Ninh, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương… được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới).

Một số ngành công nghiệp văn hóa, tạo thêm không gian và nguồn lực cho văn hóa phát triển đã bước đầu ghi nhận những thành công. Xã hội hóa hoạt động văn hóa được đẩy mạnh theo phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”, nhiều tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đã mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực, như: điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa… góp phần huy động thêm nguồn lực ngoài ngân sách.

Công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực văn hóa cũng được tăng cường, xử lý kịp thời nhiều vi phạm pháp luật về văn hóa, bài trừ các hiện tượng phản văn hóa, giữ gìn môi trường văn hóa lành mạnh. Đặc biệt, hoạt động giao lưu, hợp tác văn hóa quốc tế không ngừng mở rộng. Việt Nam tích cực tham gia đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế về văn hóa; nhiều đoàn nghệ thuật được trao đổi, nhiều tuần lễ văn hóa, triển lãm, chiếu phim, lễ hội văn hóa Việt Nam được tổ chức ở nước ngoài, góp phần quảng bá văn hóa và hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Văn hóa đã và đang thể hiện rõ nét vai trò nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Mặc dù đạt được những thành tựu quan trọng, công tác quản lý nhà nước về văn hóa vẫn bộc lộ nhiều hạn chế so với yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn. Hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa tương xứng; việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa còn chậm, một số chính sách văn hóa ban hành chưa theo kịp sự vận động của đời sống văn hóa, con người. Chẳng hạn, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam và Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục và phát triển văn học nghệ thuật sau nhiều năm triển khai vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra, thậm chí có đề án phải dừng lại giữa chừng. Điều này phản ánh khoảng cách giữa chủ trương và thực thi chính sách văn hóa.

Cơ cấu bộ máy quản lý văn hóa còn những bất cập, một số đơn vị vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước, vừa trực tiếp làm hoạt động sự nghiệp văn hóa dẫn đến chồng chéo, không tách bạch vai trò quản lý và cung cấp dịch vụ. Việc phối hợp liên ngành trong quản lý văn hóa chưa đồng bộ, đôi lúc xảy ra tình trạng đùn đẩy hoặc bỏ trống trách nhiệm. Ở một số thời điểm, cơ quan quản lý nhà nước có biểu hiện buông lỏng trong việc kiểm soát thị trường sản phẩm văn hóa, công nghiệp văn hóa, quản lý internet, mạng xã hội, văn hóa giới trẻ, văn hóa tín ngưỡng… Đây là những lĩnh vực mới nổi, biến động nhanh nhưng năng lực quản lý còn hạn chế, khiến nảy sinh các hiện tượng lệch lạc (ví dụ: tràn lan sản phẩm văn hóa độc hại trên không gian mạng, xu hướng chạy theo thị hiếu tầm thường ở một bộ phận giới trẻ, thương mại hóa tín ngưỡng thiếu định hướng…).

Ngoài ra, nguồn lực đầu tư cho văn hóa tuy tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Tỷ lệ chi ngân sách cho văn hóa còn thấp so với các lĩnh vực khác, phân bổ dàn trải, thiếu trọng tâm. Nguồn lực đầu tư cho các ngành công nghiệp văn hóa còn dàn trải, chưa có trọng điểm4 khiến hiệu quả sử dụng nguồn vốn chưa cao. Thị trường văn hóa phát triển tự phát, thiếu cơ chế hỗ trợ bài bản; nhiều tài năng sáng tạo chưa có “đất dụng võ” do thiếu môi trường và thể chế khuyến khích sự bùng nổ sáng tạo. Mặt khác, một số quy định pháp luật về văn hóa còn bất cập, chậm sửa đổi trước biến đổi của thực tiễn (ví dụ: khung pháp lý về kinh doanh dịch vụ văn hóa trên mạng, về quyền tác giả trên môi trường số, về xếp hạng phim ảnh, quảng cáo trực tuyến…). Công tác thanh tra văn hóa ở cơ sở đôi lúc chưa sâu sát, việc xử lý vi phạm có nơi chưa nghiêm minh, làm giảm hiệu quả răn đe. Những hạn chế trên cho thấy quản lý nhà nước về văn hóa cần được đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quảhơn nữa để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.

3. Bối cảnh mới và yêu cầu đối với quản lý văn hóa

Toàn cầu hóa đã trở thành xu thế khách quan, mở ra nhiều cơ hội để Việt Nam tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, quảng bá văn hóa ra thế giới, tuy nhiên, cũng mang đến thách thức không nhỏ. Sự xâm nhập ồ ạt của các sản phẩm văn hóa ngoại lai, nhất là qua internet và truyền thông toàn cầu, có thể dẫn tới nguy cơ “xâm lăng văn hóa” nếu chúng ta không đủ sức đề kháng.

Trước làn sóng Âu hóa, Hàn lưu,… bản sắc văn hóa dân tộc đứng trước nguy cơ mai một dần. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng cảnh báo: “Văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”5 như lời nhắc nhở sâu sắc về yêu cầu giữ gìn bản sắc trong hội nhập. Thực tế, Việt Nam luôn chủ trương hội nhập văn hóa một cách chủ động, có chọn lọc, “hòa nhập nhưng không hòa tan”. Điều này đòi hỏi quản lý nhà nước phải có tầm nhìn và giải pháp kịp thời; vừa tạo điều kiện để người dân hưởng thụ những giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới, vừa kiên quyết ngăn chặn các nội dung phản văn hóa, độc hại; đầu tư bảo tồn và phát huy các di sản, giá trị truyền thống như “vaccine tinh thần” tăng sức đề kháng cho xã hội.

Trong bối cảnh giao lưu quốc tế, quản lý văn hóa cũng phải linh hoạt thích ứng với các cam kết và chuẩn mực quốc tế (ví dụ: Công ước UNESCO về bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa năm 2005 mà Việt Nam là thành viên). Mặt khác, hội nhập đòi hỏi nâng cao ngoại giao văn hóa. Nhà nước cần hỗ trợ mạnh mẽ việc mang văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, xây dựng “thương hiệu văn hóa” quốc gia, qua đó khẳng định mềm sức mạnh mềm Việt Nam trên trường quốc tế.

Kỷ nguyên số đã và đang tác động sâu sắc tới lĩnh vực văn hóa. Chuyển đổi số mở ra phương thức mới trong sáng tạo, lưu trữ, phổ biến và tiêu dùng văn hóa. Văn hóa số (digital culture) cho phép những bảo tàng ảo, thư viện điện tử, triển lãm trực tuyến, biểu diễn nghệ thuật trên nền tảng số,… giúp mở rộng khả năng tiếp cận văn hóa cho mọi người. Song công nghệ cũng đặt ra thách thức về quản lý nội dung trên không gian mạng. Hiện nay, vấn đề quản lý các nền tảng số (như: mạng xã hội, dịch vụ streaming nhạc, phim trực tuyến, game online…) đang nổi lên cấp thiết. Ngành văn hóa không đủ nguồn lực, cần phối hợp liên ngành (văn hóa, thông tin – truyền thông, công an, giáo dục…) để xây dựng khung pháp lý và công cụ kỹ thuật kiểm soát hiệu quả nội dung số.

Nhà nước phải thúc đẩy “chuyển đổi số trong văn hóa” một cách mạnh mẽ; số hóa di sản (xây dựng cơ sở dữ liệu di sản quốc gia), phát triển các nền tảng số quản trị lĩnh vực văn hóa – du lịch, ứng dụng công nghệ thực tế ảo, AI trong sản xuất sản phẩm văn hóa… Nhờ đó vừa bảo tồn được các giá trị văn hóa trong môi trường số, vừa tạo động lực cho kinh tế văn hóa phát triển. Kinh tế tri thức đề cao sáng tạo và trí tuệ con người, đây chính là cốt lõi của các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo.

Trên thế giới, công nghiệp văn hóa được dự báo sẽ đóng góp tới 10% GDP toàn cầu vào năm 2030. Việt Nam cũng đặt mục tiêu các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP vào năm 20306. Thời cơ để phát triển lĩnh vực này là rất lớn nếu biết tận dụng lợi thế công nghệ và kho tàng di sản, văn hóa phong phú sẵn có. Do đó, quản lý nhà nước phải chuyển mạnh từ tư duy bao cấp, làm văn hóa thuần túy sang tư duy kinh tế văn hóa – kiến tạo môi trường cho sáng tạo và kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ văn hóa.

Cần hoàn thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hóa, có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp văn hóa, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy thương mại điện tử và thanh toán số cho các sản phẩm văn hóa. Mặt khác, phải song hành giữa kinh tế và văn hóa, không thương mại hóa thái quá mà quên đi sứ mệnh gìn giữ bản sắc và giáo dục con người.

Bước vào giai đoạn phát triển mới, tinh thần yêu nước, ý chí tự cường và khát vọng vươn lên của dân tộc Việt Nam đang bừng dậy mạnh mẽ. Những thành tựu sau gần 40 năm đổi mới đã nâng tầm vị thế Việt Nam, tạo nên niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Người dân ngày càng ý thức hơn về giá trị văn hóa truyền thống và mong muốn khẳng định bản lĩnh Việt Nam trong dòng chảy toàn cầu. Đây là nền tảng xã hội thuận lợi để chấn hưng văn hóa. “Chấn hưng văn hóa Việt Nam” vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Tinh thần dân tộc củng cố “sức mạnh mềm” và đại đoàn kết vốn là nguồn lực nội sinh quan trọng.

Quản lý văn hóa cần phát huy nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam bằng cách: đẩy mạnh giáo dục truyền thống, tuyên truyền về lịch sử anh hùng dân tộc; tôn vinh các giá trị cốt lõi như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, nhân nghĩa, cần cù, sáng tạo của con người Việt Nam; phải làm cho mỗi người dân “yêu Tổ quốc, yêu đồng bào” hơn. Do đó, Nhà nước cần hỗ trợ các phong trào, hoạt động văn hóa cộng đồng hướng về cội nguồn (như phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, lễ hội truyền thống, cuộc vận động học tập và làm theo gương Bác…) để khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, từ đó tạo đồng thuận xã hội trong phát triển đất nước.

Mặt khác, quản lý văn hóa trong thời kỳ mới cũng cần nhấn mạnh yếu tố văn hóa con người, tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về phẩm chất, lối sống, trí tuệ, thẩm mỹ. Con người vừa là chủ thể thụ hưởng, vừa là trung tâm sáng tạo văn hóa, do đó, chính sách văn hóa phải hướng đến chăm lo phát triển con người (giáo dục thẩm mỹ, đạo đức, lối sống) song hành với phát triển các sản phẩm văn hóa. Nói cách khác, chấn hưng văn hóa dân tộc phải gắn với “trồng người”, bởi nguồn nhân lực sáng tạo dồi dào mới bảo đảm cho một nền văn hóa cường thịnh.

4. Kết luận

Để xây dựng được một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc, có sức đề kháng trước tiêu cực ngoại lai, đủ hấp dẫn và sức lan tỏa để đóng góp vào văn minh chung của nhân loại. Đó chính là cách chúng ta biến những thách thức của toàn cầu hóa và thời đại số thành cơ hội để văn hóa Việt Nam phát triển bền vững, đóng góp xứng đáng vào sự phồn vinh của đất nước. Nền văn hóa sẽ là điểm tựa tinh thần vững chắc, cổ vũ ý chí tự lực tự cường và khát vọng phát triển của cả dân tộc trong kỷ nguyên mới. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng và Nhà nước, sự chung sức đồng lòng của giới làm văn hóa và toàn xã hội, nền văn hóa Việt Nam sẽ ngày càng tỏa sáng, trở thành một động lực mạnh mẽ đưa dân tộc vươn tới tương lai rạng rỡ.

Chú thích:
1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. https://cnxh.nhandan.vn/xay-dung-con-nguoi-viet-nam-phat-trien-toan-dien-266.html.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 143 – 144.
3. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ mới. https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-xay-dung-hoan-thien-the-che-phat-trien-van-hoa-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-dat-nuoc-thoi-ky-moi.
4. Để văn hóa trở thành động lực phát triển. https://daidoanket.vn/de-van-hoa-tro-thanh-dong-luc-phat-trien-10296941.html.
5. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: văn hóa còn là dân tộc còn. https://hochiminhcity.gov.vn/vi/web/hcm/w/tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-van-hoa-con-la-dan-toc-con-
6. Phát triển công nghiệp văn hóa – động lực quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. https://ictvietnam.vn/phat-trien-cong-nghiep-van-hoa-dong-luc-quang-ba-hinh-anh-viet-nam-ra-the-gioi-68168.html.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương (2021). Báo cáo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc: Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc; Xây dựng, phát triển văn hóa sau 35 năm Đổi mới; Định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII.
2. Hồ An Phong (2025). Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045: Thúc đẩy công nghiệp văn hóa ở tầm cao mới.
3. Nguyễn Phương Hòa (2023). Phát triển công nghiệp văn hóa: Việt Nam học hỏi kinh nghiệm gì từ quốc tế? Tham luận tại Hội nghị toàn quốc về phát triển công nghiệp văn hóa.
4. Nguyễn Văn Hùng (2023). Cần có nhiều giải pháp đồng bộ để quản lý văn hóa trên không gian mạng.
5. UNESCO (2022). Báo cáo hội nghị MONDIACULT 2022 – Văn hóa vì sự phát triển bền vững.
6. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/12/19/mot-so-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-hoat-dong-quan-ly-nha-nuoc-ve-van-hoa.

(Còn nữa)