Nghiên cứu vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường tại tỉnh Khánh Hòa 

TS. Trần Thị Thùy Trang
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng

(Quanlynhanuoc.vn) – Môi trường không phải là một thực thể tách biệt khỏi nền kinh tế, vì vậy, sự tăng trưởng kinh tế kéo theo những nhu cầu ngày càng tăng về sinh hoạt, nhà ở, làm nhu cầu tiêu dùng hàng hóa tăng, gây sức ép lớn nên các tài nguyên đất, tài nguyên nước ngày càng bị ô nhiễm do việc chiếm dụng đất nông nghiệp. Sự phát triển kinh tế – xã hội làm cho lượng chất thải tăng, các nguồn gây ô nhiễm tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất, làng nghề ngày càng tăng cả về quy mô, số lượng và mức độ ô nhiễm, do đó, ảnh hưởng đến vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với công tác bảo vệ môi trường. Bài viết tập trung nghiên cứu vai trò của chính quyền tỉnh Khánh Hòa trong việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, trên cơ sở đánh giá kết quả cũng như nêu mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh sau khi thực hiện sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh để đưa ra một số giải pháp cho vấn đề này.

Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, chất thải rắn, chính quyền cấp tỉnh, tỉnh Khánh Hòa.

1. Đặt vấn đề

Phát triển bền vững đã trở thành vấn đề quan trọng và cấp bách, do sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, dẫn đến ô nhiễm không khí và nước nghiêm trọng và suy thoái đất. Những vấn đề này không chỉ đe dọa các hệ sinh thái tự nhiên mà còn đe dọa sự phát triển bền vững của cả xã hội và nền kinh tế ((Deng, Zhang, 2024). Trong khi đó, việc cân bằng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường đã trở thành một thách thức đáng kể đối với các nhà hoạch định chính sách. Để phát triển kinh tế bền vững cần phải thúc đẩy đổi mới công nghệ và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp (Fan & Liang, 2023), việc áp dụng công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất có thể giúp giảm phát thải công nghiệp và cải thiện hiệu quả năng lượng tổng thể giúp địa phương phát triển kinh tế bền vững (Lin và cộng sự, 2023; Nguyễn Đình Việt, Nguyễn Văn Hoàng, 2022). Các chính sách về môi trường có hiệu quả sẽ giảm mức độ ô nhiễm tại địa phương và cải thiện sức khỏe cộng đồng (Du, Li, Shi, & Wang, 2024; Li, Hu, & Hong, 2024; Zhang và cộng sự, 2025). Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây thường bỏ qua những khác biệt trong việc thực thi chính sách của chính quyền địa phương cấp tỉnh.

Hiện nay, tỉnh Khánh Hòa mới (sáp nhập tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Khánh Hòa) có diện tích tự nhiên 8.555,86 km2, quy mô dân số là 2.243.554 người (Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 của Quốc hội khóa XV về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp tỉnh). Phía Đông của tỉnh Khánh Hòa là Biển Đông với đường bờ biển dài 385 km với hơn 200 hòn đảo lớn nhỏ và sở hữu 3 vịnh biển nổi tiếng là Vịnh Nha Trang, Vịnh Cam Ranh và Vịnh Vân Phong (Cổng thông tin điện tử tỉnh Khánh Hòa). Năm 2024, đóng góp trong tổng mức tăng 10,16% của toàn tỉnh, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng cao nhất với 18,01%, tiếp đến khu vực dịch vụ tăng 7,1%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 6% và khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,91%. Tuy nhiên, phát triển kinh tế ở Khánh Hòa có thể gây ra các vấn đề ô nhiễm môi trường, nhưng chính quyền tỉnh cũng đang có những nỗ lực để hạn chế tác động tiêu cực và phát triển bền vững. Việc bảo vệ môi trường là một phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Khánh Hòa (UNBD tỉnh Khánh Hòa, 2025). 

Có thể nói, để phát triển bền vững, hài hoà với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, vì vậy cần giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội. Kinh tế phát triển mà môi trường bị ô nhiễm, sức khỏe của con người bị ảnh hưởng bởi chất thải công nghiệp, sự phát triển đó cũng không có giá trị. Do đó, phát triển kinh tế luôn gắn liền với bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và đem lại những điều kiện sống tốt nhất cho con người, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Phương pháp nghiên cứu

Thứ nhất, tác giả thực hiện phương pháp thu thập dữ liệu bằng cách rà soát các báo cáo của chính quyền địa phương về tốc độ phát triển kinh tế và công tác bảo vệ môi trường tại tỉnh Khánh Hòa.

Thứ hai, áp dụng phương pháp phân tích định lượng nhằm đánh giá vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường tại tỉnh Khánh Hòa. Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 8/2024 đến tháng 12/2024 nhằm thu thập dữ liệu về vấn đề bảo vệ môi trường tại tỉnh Khánh Hòa qua việc thực hiện điều tra bảng hỏi đối với cán bộ quản lý môi trường tại Sở Tài Nguyên và Môi trường. Dữ liệu được thu thập bằng hình thức trực tuyến, thông qua hình thức gửi thư mời với phiếu được xây dựng thông qua tạo Form biểu mẫu khảo sát trên Google.

Qua việc sử dụng phương pháp lấy mẫu chùm với cách chọn điều tra khảo sát được phân bổ như sau: Điều tra cán bộ quản lý môi trường các cấp 100 phiếu, các nhà khoa học 30 phiếu tác giả sử dụng thang đo Likert 5 điểm để đánh giá nhận xét của người được hỏi về vai trò của chính quyền tỉnh trong việc gắn phát triển kinh tế đối với bảo vệ môi trường với các mức độ đánh giá cho mỗi tiêu chí bằng cách tích vào ô điểm tương ứng trong bảng hỏi theo quy ước: (1) Rất không tốt, (2) Không tốt, (3) Trung bình, (4) Tốt, (5) Rất tốt. Mục đích của điều tra khảo sát bằng bảng hỏi nhằm thu thập thông tin sơ cấp cần thiết để phân tích, đánh giá vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh. Tác giả sử dụng phần mềm thống kê SPSS để xử lý dữ liệu khảo sát và phân tích các xu hướng chính sách. 

3. Cơ sở lý luận

3.1. Phát triển kinh tế

Phát triển kinh tế là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhằm tăng cường sự phát triển bền vững, không chỉ gia tăng sản lượng mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao giáo dục, y tế và giảm bất bình đẳng trong xã hội. Phát triển kinh tế không chỉ đo bằng các chỉ số tài chính mà còn thông qua các chỉ số về hạnh phúc, sức khỏe, môi trường và công bằng xã hội. Một nền kinh tế phát triển sẽ giúp nâng cao mức sống của người dân, tạo ra cơ hội việc làm, giảm tỷ lệ nghèo đói và nâng cao phúc lợi xã hội giúp cải thiện chất lượng cuộc sống; giảm bất bình đẳng xã hội; tạo ra nền tảng cho đổi mới sáng tạo và đầu tư từ đó thúc đẩy sự phát triển trong các ngành công nghiệp, dịch vụ và nghiên cứu.

3.2. Bảo vệ môi trường

Khoản 2 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định: “Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu”. Do vậy, bản chất của bảo vệ môi trường là bảo vệ sức sản xuất, là nhu cầu để phát triển công nghiệp, là nhu cầu trong cuộc sống thường ngày của con người.

3.3. Ảnh hưởng của phát triển kinh tế đến công tác bảo vệ môi trường tại địa phương

Thực tế cho thấy, kinh tế phát triển sẽ tác động mạnh mẽ đến môi trường sinh thái; biểu hiện ở việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng giao thông phục vụ cho quá trình kinh doanh, sản xuất của các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa.

Một là, tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sẽ giảm do sự tăng trưởng kinh tế, lượng chất thải phát sinh tăng nếu hệ thống thu gom và xử lý nước thải vẫn như cũ, chất thải nguy hại chưa được quản lý tốt, thiếu công nghệ, thiết bị nên xử lý kém hiệu quả làm cho các loại chất thải công nghiệp, hóa chất nguy hại, bao bì thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu, chất thải y tế nguy hại chưa được xử lý hoặc xử lý chưa đạt yêu cầu, hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường chưa kịp đầu tư mới và không đồng bộ nên một lượng lớn chất thải chưa qua xử lý, gây ô nhiễm môi trường.

Hai là, ban hành chính sách bảo vệ môi trường chưa theo kịp sự phát triển kinh tế, vì vậy, chính quyền địa phương vẫn chưa tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi để khuyến khích phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ môi trường và sản phẩm thân thiện với môi trường.

Ba là, bộ máy quản lý về môi trường chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao trong công tác bảo vệ môi trường, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, bảo vệ môi trường vẫn thiếu và chất lượng chưa cao; đặc biệt trong giai đoạn chuyển đổi số cán bộ quản lý hiện nay.

Như vậy sự phát triển kinh tế – xã hội sẽ làm cho khối lượng chất thải tăng, các nguồn gây ô nhiễm tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất, làng nghề ngày càng tăng cả về quy mô, số lượng và mức độ ô nhiễm, do công tác kiểm soát và xử lý các nguồn gây ô nhiễm môi trường, hạ tầng xử lý chất thải chưa theo kịp sự phát triển kinh tế, nguồn nhân lực phục vụ công tác bảo vệ môi trường của tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu, hệ thống thu gom và xử lý chất thải cũng chưa theo kịp lượng chất thải phát sinh nên sẽ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng.

4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Là tỉnh xếp thứ 7 trên cả nước và duy trì mức tăng trưởng cao, Khánh Hòa cũng đạt được nhiều kết quả nổi bật trong các lĩnh vực, như: sản xuất công nghiệp, du lịch, xuất khẩu và đầu tư. GRDP tăng 10,16% so với năm 2023, xếp thứ 7 cả nước và là năm thứ ba liên tiếp Khánh Hòa thuộc nhóm các địa phương đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế “hai con số”, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 27,15%, tổng doanh thu du lịch tăng 56,47% với số lượt khách lưu trú tăng 49,03%, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt hơn 2 tỷ USD, tăng 16,54%, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 80.569 tỷ đồng, tăng 13% (UBND tỉnh Khánh Hòa, 2025).

Trên cơ sở phát triển kinh tế tỉnh, chính quyền đại phương trên địa bàn tỉnh cũng đã chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ công tác bảo vệ môi trường và kết quả đạt được như sau:

Bảng 1: Kết quả thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường tỉnh Khánh Hòa năm 2024

Mục tiêu bảo vệ môi trường tỉnhKết quả
1.  Tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị từ loại IV trở lên được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường 32,45%
2. Tỷ lệ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát sinh nước thải từ 50m3/ngày (24 giờ) trở lên có hệ thống xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường99,5%
3. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường (%)100%
4. Tỷ lệ cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường  89,33%
5. Tỷ lệ cơ sở y tế có hệ thống xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường 86,36%
6. Tỷ lệ chất thải nguy hại được xử lý đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường98,38%
7. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường88,33%
8. Tỷ lệ bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt hợp vệ sinh37,5%
Nguồn: Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Khánh Hòa, 2024.

Nhìn vào Bảng 1 cho thấy, các chỉ tiêu thực hiện công tác bảo vệ môi trường đều đạt trên 80%, tuy  nhiên, “Tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị từ loại IV trở lên được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường” chỉ đạt 32,45%, mức đầu tư cơ sở hạ tầng bảo vệ môi trường tại khu dân cư và khu công nghiệp còn hạn chế nên đã gây ảnh hưởng đến môi trường đất, nước, không khí do hoạt động xây dựng, phương tiện giao thông tăng, các chất thải do các cơ cở sản xuất – kinh doanh tạo ra lớn “Tỷ lệ bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt hợp vệ sinh” chỉ đạt 37,5% cho thấy, vấn đề phát triển hạ tầng xử lý chất thải còn hạn chế vẫn chưa theo kịp sự tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Theo dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021 – 2030, tỉnh Khánh Hòa đạt 8,3%/năm, trong đó: nông, lâm nghiệp – thủy sản tăng 2,4%, công nghiệp – xây dựng (10%), dịch vụ (8,7%), cùng với với tăng trưởng kinh tế trên, theo quy hoạch các tỉnh Khánh Hòa thời kỳ 2021 – 2030, lượng chất thải rắn (CTR) và nước thải đến năm 2025 và năm 2030 như sau:

Bảng 2: Dự báo lượng chất thải tỉnh Khánh Hòa đến năm 2025 và năm 2030

Lượng chất thải phát sinhNăm 2025Năm 2030
 Chất thải rắn(tấn/ngày)CTR sinh hoạt1375,81738,6
CTR công nghiệp178,75213
CTR y tế9,610,2
  Nước thải(m3/ngày đêm) Nước thải sinh hoạt đô thị, du lịch246.453287.542
Nước thải sinh hoạt nông thôn86.54392.594
Nước thải công nghiệp130.453136.223
Nguồn: Quy hoạch tỉnh Khánh Hòa thời kỳ 2021 – 2030.

Theo dự báo, lượng chất thải đến năm 2030 tâng so với dự báo năm 2025, như nước thải sinh hoạt đô thị, du lịch năm 2025 là 246.453 m3/ngày đêm, năm 2030 là 287.542 m3/ngày đêm; CTR sinh hoạt năm 2025 là 1375,8 tấn/ngày, năm 2025 là 1738,6 tấn/ngày trong khi tỷ lệ bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt hợp vệ sinh tại tỉnh đạt 37,5%, như vậy, lượng chất thải rắn sinh hoạt còn lại khá lớn sẽ được thực hiện đốt hoặc chôn thủ công gây ô nhiễm môi trường. Chất thải, đặc biệt là chất thải công nghiệp và sinh hoạt, có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con người suy thoái tài nguyên thiên nhiên, và chi phí xử lý chất thải tốn kém.     Để đánh giá vai trò của chính quyền tỉnh trong việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, tác giả thực hiện điều tra khảo sát cán bộ quản lý môi trường, nhà quản lý, nhà khoa học trên địa bàn tỉnh và kết quả (theo Quyết định số 318/QĐ-TTg ngày 05/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tỉnh Khánh Hòa thời kỳ 2021 – 2030).

Bảng 3: Kết quả khảo sát vai trò của chính quyền tỉnh đối với gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường

Nội dungĐiểm bình quân (mean)Độ lệch chuẩn
1.Chọn lọc các dự án đầu tư gắn với bảo vệ môi trường3,750,72
2. Thực hiện quan trắc tự động đối với các doanh nghiệp có nguồn thải lớn2,520,64
3.Kiểm soát và sử dụng có hiệu quả sản lượng khai thác đối với tài nguyên khoáng sản3,450,82
4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thoát nước thải cho khu công nghiệp3,210,77
5. Tuyên truyền phân loại rác thải tại nguồn3,820,89
6. Hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện sản xuất xanh3,340,66
Nguồn: Kết quả điều tra, khảo sát của tác giả, 2025.

Nhìn vào Bảng 3 cho thấy, chính quyền tỉnh chưa phát huy hết vai trò của mình trong việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường khi có tới 2/3 tiêu chí được đánh ở mức trung bình, tiêu chí còn lại dù đạt mức tốt nhưng điểm bình quân thấp. Phát triển kinh tế cần gắn với bảo vệ môi trường là một quan điểm nhất quán và xuyên suốt trong quá trình phát triển của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. Điều này có nghĩa là phát triển kinh tế không được đánh đổi bằng sự hủy hoại môi trường mà cần được thực hiện hài hòa, bền vững, bảo cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường.   

5. Kết luận

Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường còn có tác dụng quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế vào Việt Nam, xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác giả thực hiện khảo sát vai trò cùa chính quyền tỉnh Khánh Hòa trong việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường. Vì vậy, UBND tỉnh Khánh Hòa cần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh gắn với công tác bảo vệ môi trường, trong đó thực hiện các giải pháp sau:

Một là, cần sàng lọc và quyết định đầu tư dự án trên cơ sở phát triển bền vững từ chủ đầu tư cho tại địa phương muốn đầu tư, từng dự án đầu tư cơ quan cấp tỉnh phải được xem xét kỹ các yếu tố chi phí – lợi ích để đưa ra quyết định lựa chọn đúng đắn, phù hợp nhằm vừa bảo đảm phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo vệ môi trường.

Hai là, nâng cao năng lực quan trắc và quan trắc môi trường tự động không khí tại một số khu vực du lịch ở Nha Trang (Khánh Hòa) và về quan trắc môi trường tự động nước, như: sông Cái Nha Trang và sông Cái Ninh Hòa, có kế hoạch thực hiện quan trắc tự động đối với các doanh nghiệp có nguồn thải lớn phải được kết nối bằng công nghệ thông tin hiện đại và truyền dữ liệu về Sở Tài nguyên và Môi trường với sở Tài nguyên và Môi trường của các tỉnh lân cận để được theo dõi liên tục, dễ dàng giám sát và sẽ có kế hoạch ứng phó với trường hợp sự cố môi trường xảy ra.

Ba là, tăng cường kiểm soát và sử dụng có hiệu quả sản lượng khai thác đối với tài nguyên khoáng sản, cần kết hợp các chính sách thúc đẩy khoa học – công nghiếp phát triển nhằm thay thế việc sản xuất sử dụng các nguồn tài nguyên thô tạo ra các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giá trị lớn. kiên quyết không chấp thuận đầu tư, cấp phép, các dự án không bảo đảm tiêu chuẩn có nguy cơ ô nhiễm môi trường.

Bốn là, ưu tiên kinh phí đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp, cải tạo đồng bộ hệ thống thu gom nước thải tại các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp có lượng nước thải tập trung và trạm quan trắc tự động. Các cụm công nghiệp đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung phải khẩn trương kiểm tra, đánh giá hiện trạng và đầu tư nâng cấp, cải tạo để đưa vào hoạt động nhằm bảo đảm cơ sở sản xuất – kinh doanh trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp phải thu gom nước thải bảo đảm. 

Năm là, thực hiện tuyên truyền phân loại rác tại nguồn, như: tờ rơi, poster, infographic: cung cấp thông tin dễ hiểu về phân loại rác, lợi ích và cách thực hiện. Hướng dẫn người dân phân loại rác thành các nhóm cơ bản, như: rác hữu cơ, rác tái chế, rác vô cơ. Bên cạnh đó, chính quyền tỉnh cần đầu tư trang thiết bị, phương tiện hiện đại, đồng bộ để thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sau khi phân loại, ban hành các quy định rõ ràng về phân loại rác, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân và có chế tài xử lý các trường hợp vi phạm. 

Sáu là, hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện sản xuất xanh như giảm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp sản xuất xanh hoặc đầu tư vào công nghệ xanh, tạo điều kiện tiếp cận vốn vay ưu đãi từ ngân hàng hoặc các quỹ phát triển xanh cho các doanh nghiệp chuyển đổi sang sản xuất xanh, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh. 

Qua nghiên cứu cho thấy, để bảo đảm phát triển kinh tế bền vững trên địa bàn tỉnh cần có sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan và UBND tỉnh đối với bảo vệ môi trường. Đồng thời cũng chỉ ra sự phát triển kinh tế là nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Vì vậy, tỉnh Khánh Hòa cần phát huy hơn nữa vai trò đối với việc gắn kết phát triển kinh tế đối với bảo vệ môi trường, như: nâng cao năng lực quan trắc, tăng cường công tác tuyên truyền phân loại rác tại nguồn, thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện sản xuất xanh… trong bối cảnh mới 

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc hội (2020). Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

2. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.

3. Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định số 318/QĐ-TTg ngày 05/12/2023 phê duyệt quy hoạch tỉnh Khánh Hòa thời kỳ 2021 – 2030.

4. UBND tỉnh Khánh Hòa (2025). Báo cáo số 02/BC-CTK ngày 02/01/2025 về tình hình kinh tế – xã hội tỉnh Khánh Hòa năm 2024.

5. Nguyễn Đình Việt, Nguyễn Văn Hoàng (2022). Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế – xã hội với bảo vệ môi trường trong xây dựng và phát triển vùng Tây Nguyên theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW. Tạp chí Môi trường, tháng 10/2022.

6. C. Chen, T. Zhang, H. Chen,  X. Qi (2024). Regional financial reform and corporate green innovation–Evidence based on the establishment of China National Financial Comprehensive Reform Pilot Zones. Finance Research Letters, Volume 60, https://doi.org/10.1016/j.frl.2023.104849.

7. Deng, Wenyueyang & Zhang, Zenglian & Guo, Borui (2024). Firm-level carbon risk awareness and Green transformation: A research on the motivation and consequences from government regulation and regional development perspective. International Review of Financial Analysis, vol. 91(C). https://doi.org/10.1016/j.irfa.2023.103026.

 8. Fan, Hongmin, Liang, Chen, 2023. The pollutant and carbon emissions reduction synergistic effect of green fiscal policy: Evidence from China. Finance Research Letters, https://doi.org/10.1016/j.frl.2023.104446.

9. J.Du, Z.Li, G. Shi , B. Wang (2024). Can “environmental protection fee to tax” reduce carbon emissions? Evidence from China. Finance Research Letters, V. 62, Part B, https://doi.org/10.1016/j.frl.2024.1051.

10. Li, H.Hu, Z. Hong (2024). Green finance policy, ESG rating, and cost of debt-Evidence from China. International Review of Financial Analysis, Volume 92https://doi.org/10.1016/j.irfa.2023.103051.

11. S. Zhang, D.Chen, Q. Zou (2025). China’s green transformation under the dual incentives of economic growth and environmental protection. International Review of Financial Analysis, V.102, June 2025, 104150. https://doi.org/10.1016/j.irfa.2025.104150.