Vai trò của Nhà nước đối với chuyển đổi số ngành Nông nghiệp ở Việt Nam

ThS. Nguyễn Thị Minh Nga
NCS của Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, chuyển đổi số ngành Nông nghiệp nước ta là xu thế tất yếu để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp thông qua việc xây dựng các chương trình hành động cụ thể. Trong đó, nhiều địa phương đã được khuyến khích ứng dụng các nền tảng công nghệ trong quản lý, sản xuất, phân phối và tiêu thụ nông sản, giúp gia tăng hiệu quả chuỗi giá trị nông nghiệp; tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Vì vậy, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ, đẩy mạnh đầu tư hạ tầng sốthúc đẩy quá trình số hóa ngành Nông nghiệp để bảo đảm hiệu quả triển khai.

Từ khóa: Nhà nước; chuyển đổi số; ngành Nông nghiệp; Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát triển ngành Nông nghiệp theo hướng hiện đại nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp. Chuyển đổi số đã trở thành xu thế tất yếu, tác động sâu rộng và toàn diện đến các ngành,  lĩnh vực, nhất là ngành Nông nghiệp. Quá trình này không chỉ giúp tối ưu hóa hoạt động sản xuất và quản lý mà còn mở ra cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh, kết nối thị trường và xây dựng nền nông nghiệp thông minh, bền vững. Tuy nhiên, hiện nay chuyển đổi số vẫn còn một số hạn chế nhất định, do đó, cần có các giải pháp mang tính hệ thống của cơ quan quản lý nhà nước. Để đạt được điều này, cần có những giải pháp đồng bộ, toàn diện và có tính chiến lược lâu dài sẽ là nền tảng hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp thông minh, hiện đại và bền vững.

2. Chuyển đổi số ngành Nông nghiệp hiện nay

Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số, như: Chỉ thị số 16/2017/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Nghị quyết số 52/2019-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Quyết  định số 749/QÐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 định hướng đến năm 2030. Cụ thể: (1) Phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo hướng chú trọng nông nghiệp thông minh, nông nghiệp chính xác, tăng tỷ trọng của nông nghiệp công nghệ số trong nền kinh tế; (2) Thực hiện chuyển đổi số trong nông nghiệp phải dựa trên nền tảng dữ liệu (đất đai, cây trồng, vật nuôi, thủy sản). Xây dựng mạng lưới quan sát, giám sát tích hợp trên không và mặt đất phục vụ các hoạt động nông nghiệp. Thúc đẩy cung cấp thông tin về môi trường, thời tiết, chất lượng đất đai để người nông dân nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng, hỗ trợ chia sẻ các thiết bị nông nghiệp qua các nền tảng số; (3) Ứng dụng công nghệ số để tự động hóa các quá trình sản xuất – kinh doanh; quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm, bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, chính xác, an toàn, vệ sinh thực phẩm;… đào tạo ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, cung cấp, phân phối, dự báo (giá, thời vụ…) nông sản, đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử trong nông nghiệp; (4) Thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ trong công tác quản lý để có các chính sách, điều hành kịp thời phát triển nông nghiệp, như: dự báo, cảnh báo thị trường, quản lý thu hoạch. 

Nhiều chính sách được ban hành khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, trong đó chính sách tín dụng tập trung vào việc tăng hạn mức tín dụng và giảm lãi suất cho nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Đặc biệt, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ cho phép doanh nghiệp vay vốn tới 70 – 80% giá trị các dự án nông nghiệp công nghệ cao mà không cần thế chấp và Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Trong đó, đất giao cho các hộ gia đình, cá nhân quản lý và sản xuất nông nghiệp được miễn thuế đến hết ngày 31/12/2025 (căn cứ theo Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010, Nghị quyết số 28/2016/QH14 ngày 11/11/2016 và Nghị quyết số 107/2020/QH14 ngày 10/6/2020). Việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp nhằm bảo đảm các mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân của Đảng và Nhà nước; đồng thời, thúc đẩy tích tụ đất đai và tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển đổi số nông nghiệp.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong thời gian 15 năm được quy định tại Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày18/6/2014 và sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 96/2015/TT-BTC ngày 22/6/2015 của Bộ Tài chính về thời gian ưu đãi thuế tối đa không quá 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 9 năm tiếp theo. Đối với doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, thời gian ưu đãi được tính từ ngày được cấp giấy chứng nhận. Đặc biệt, Nghị định số 57/2018/NĐ-CP đã quy định miễn tiền thuê đất trong 15 năm khi doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao. Trên cơ sở đó, nông nghiệp Việt Nam hiện nay có 3 hình thức tổ chức sản xuất – kinh doanh: hộ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, với 9.123 nghìn đơn vị sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp tính đến ngày 01/7/2020. Trong đó có 9.108 nghìn hộ, 7.418 hợp tác xã và 7.471 doanh nghiệp là các đơn vị tham gia trực tiếp vào quá trình chuyển đổi số1

Theo thống kê mới nhất, trong hơn 31 nghìn hợp tác xã trên cả nước, có hơn 20 nghìn hợp tác xã nông nghiệp, chiếm trên 64% tổng số hợp tác xã cả nước. Nhiều loại hình hợp tác xã liên kết trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, tạo nên các chuỗi liên kết nông sản đa giá trị, bền vững2. Năm 2024 được coi là năm triển khai mạnh mẽ hàng nghìn ha nhà kính, nhà lưới và nhà màng với diện tích lớn trồng hoa và trồng rau; đặc biệt là việc áp dụng nhiều kỹ thuật mới như hệ thống tưới tiết kiệm, nhỏ giọt và sử dụng phân bón hữu cơ

Trong quản lý và trực tiếp sản xuất đã áp dụng công nghệ nhà lưới, nhà kính, thiết bị tưới điều khiển tự động, hệ thống giám sát và điều khiển nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, thông gió và tưới nước, giám sát canh tác rau hoa… thông minh giúp cây trồng tăng năng suất, chất lượng cao hơn so với sản xuất truyền thống. Quản lý trang trại thông minh, tự động cung cấp thức ăn tùy theo độ tuổi của gia súc, lập trình số lần ăn, định lượng mỗi lần ăn, tự động mở đèn thắp sáng trang trại, thắp sáng khi ăn. Ứng dụng công nghệ cao trong chọn, tạo và nhân giống cây lâm nghiệp; quản lý bảo vệ tài nguyên rừng; khai thác vận chuyển, chế biến, bảo quản lâm sản, áp dụng công nghệ nhân giống bằng công nghệ nuôi cấy mô tế bào các loài cây trổng rừng có năng suất, chất lượng cao, rừng gỗ lớn, sử dụng công nghệ gen để lập gen đích có giá trị kinh tế, có tính chống chịu, tạo ra một số dòng cây chuyển gen mang gen đích có năng suất cao, áp dụng công nghệ vào chọn giống, nhân giống, quản lý rừng.

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ (năm 2019) cho biết, gồm 35% doanh nghiệp nông nghiệp có kế hoạch đầu tư công nghệ mới và 69% đã ứng dụng công nghệ thông tin. Trong đó, 63% doanh nghiệp sử dụng phân tích dữ liệu thời gian thực, nhưng 43% gặp khó khăn về ngân sách.

Về phía hộ nông dân, chỉ 15% hộ nông dân có kế hoạch đầu tư vào công nghệ mới và 18% đã ứng dụng công nghệ thông tin; 46% hộ cho rằng, công nghệ tự động hóa quan trọng, trong khi 39% gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin.

3. Kết quả triển khai các mô hình điện tử thương mại trong nông nghiệp

Thứ nhất, ứng dụng công nghệ trong tiêu thụ sản phẩm.

Ở nước ta đang triển khai 3 mô hình thương mại điện tử, phổ biến nhất là B2B (doanh nghiệp với doanh nghiệp), B2C (doanh nghiệp với khách hàng) và C2C (người tiêu dùng với người tiêu dùng). Theo báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam (VECOM, 2024) cho thấy, có 24% doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh trên sàn thương mại điện tử, hoạt động của các nền tảng này cũng dần được doanh nghiệp quan tâm nhiều hơn cả về khía cạnh chính sách thực thi và hiệu quả kinh doanh. Năm 2023, xu hướng kinh doanh qua sàn thương mại điện tử được nhiều doanh nghiệp lựa chọn3.

Trong lĩnh vực nông nghiệp có hai sàn thương mại điện tử là Postmart.vn và Voso.vn. Dù mới ra đời nhưng hai sàn thương mại điện tử này đã gặt hái được nhiều thành công, qua đó, giúp các hộ sản xuất nông nghiệp quảng bá, giới thiệu sản phẩm trực tiếp đến tay người tiêu dùng; đồng thời, hỗ trợ quản lý đơn hàng, tiếp nhận vận chuyển, phát đơn hàng đến tay người mua và thu hộ tiền trả cho người bán. Thống kê từ các địa phương cho thấy, đến hết tháng 4/2024, đã có hơn 02 triệu hộ sản xuất nông nghiệp cả nước được đào tạo kỹ năng số, gần 50.000 sản phẩm nông sản được đưa lên sàn thương mại điện tử và hàng nghìn giao dịch điện tử đã được thực hiện cho thấy hiệu quả bước đầu của công cuộc chuyển đổi số nông nghiệp. Chuỗi giá trị nông nghiệp Việt Nam gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc, xây dựng được hơn 2.500 chuỗi lớn4. Nhiều chuỗi giá trị ngành hàng được hình thành và phát triển mạnh mẽ, nhiều sản phẩm nông sản đã có mặt trên các thị trường quốc tế (kể cả thị trường khó tính, như: Mỹ, EU, Nhật Bản). 

Kim ngạch xuất khẩu nông – lâm – thủy sản năm 2024 ước đạt trên 62,5 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay5. Thị trường nông sản không ngừng mở rộng, xuất khẩu nông sản chuyển mạnh sang chính ngạch và đã có mặt trên 200 quốc gia, vùng lãnh thổ6 đứng thứ 2 Đông Nam Á và đứng thứ 15 thế giới; đặc biệt đã có trên 4.000 hợp tác xã tham gia liên kết theo chuỗi giá trị, chiếm gần 13% tổng số hợp tác xã7. Tuy nhiên, mối liên kết giữa các tác nhân trong cùng một khâu – liên kết ngang cũng như giữa các khâu – liên kết dọc trong chuỗi giá trị chưa chặt chẽ, mang tính thời vụ, chưa có sự gắn kết về lợi ích nên tính bền vững chưa cao.

Thứ hai, ứng dụng công nghệ trong quản lý nhà nước.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã tích hợp một tập hợp các dịch vụ công lên cùng một nền tảng công nghệ chung để giải quyết các thủ tục hành chính nhanh gọn; Trung tâm Chuyển đổi số và thống kê nông nghiệp cũng đang nghiên cứu thử nghiệm để triển khai ứng dụng Trợ lý ảo của Cục Chuyển đổi số Quốc gia trong lĩnh vực phát triển dữ liệu, thường xuyên cập nhật và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi, phòng, chống thiên tai; lĩnh vực thủy lợi (xây dựng nền tảng chuyển đổi số trong chỉ đạo, điều hành cấp nước cho dân sinh, sản xuất và bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước thủy lợi).

Trong lĩnh vực chăn nuôi, một số trang trại đã áp dụng hệ thống cảm biến điều khiển tiểu khí hậu chuồng nuôi, cho ăn và cấp nước uống tự động; quản lý, theo dõi chăn nuôi, xuất xứ động vật nuôi bằng phần mềm… Các công nghệ mới, như: IoT, Blockchain, tin sinh học đã được ứng dụng tại trang trại chăn nuôi quy mô vừa và lớn. Lĩnh vực thủy sản đã ứng dụng hệ thống giám sát hành trình, phần mềm Vnfishbase trong khai thác thủy sản để quản lý tàu cá và hỗ trợ ngư dân trong quá trình khai thác trên biển. Công nghệ IoT đã được ứng dụng trong đo lường, theo dõi, giám sát chất lượng nước tự động 24/24; đo độ mặn của sông, cho biết thời điểm xâm nhập mặn.

Thứ ba, Nhà nước kiểm tra, giám sát đối với việc chuyển đổi số trong nông nghiệp.

Hoạt động này được tập trung vào các nội dung, như: mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất và quản lý nông nghiệp; tính hiệu quả của các mô hình nông nghiệp thông minh; việc tích hợp dữ liệu trong hệ sinh thái số nông nghiệp và sự tham gia của người dân, doanh nghiệp vào quá trình chuyển đổi. Các hình thức giám sát (giám sát thường xuyên thông qua báo cáo định kỳ, kiểm tra chuyên đề) và thanh tra đột xuất khi cần thiết. Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Chỉ số chuyển đổi số. Đây là căn cứ để kiểm tra, giám sát. Chỉ số đánh giá ở 3 trụ cột (chính quyền số, kinh tế số và xã hội số) và 7 chỉ số cho một trụ cột (chuyển đổi nhận thức, kiến tạo thể chế, phát triển hạ tầng và nền tảng số, thông tin và dữ liệu số, hoạt động chuyển đổi số, an toàn an ninh mạng, đào tạo và phát triển nhân lực).

4. Đánh giá vai trò của Nhà nước đối với chuyển đổi số trong nông nghiệp 

4.1. Những hạn chế, bất cập trong triển khai chuyển đổi số đối với ngành Nông nghiệp Việt Nam

Chuyển đổi số trong nông nghiệp ở Việt Nam là một quá trình cần thiết nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và tính bền vững của ngành. Tuy nhiên, vai trò của Nhà nước trong quá trình này vẫn nhiều hạn chế, có thể chia thành các nhóm chính, như sau:

Một là, nhiều chính sách về chuyển đổi số trong nông nghiệp còn chung chung, chưa có hướng dẫn cụ thể để triển khai, một số chính sách chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong nông nghiệp chưa phù hợp và kịp thời so với thực tế. Việc phát triển nông nghiệp còn thiếu quy hoạch, quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất còn chậm. Chính sách đất nông nghiệp chưa khuyến khích nông dân bảo vệ đất và đầu tư dài hạn vào đất. Bên cạnh đó, ở nhiều địa phương, những vị trí thuận lợi thường được ưu tiên cho xây dựng các khu công nghiệp, đô thị, khu vui chơi giải trí. 

Với tình trạng này, nếu Nhà nước và các cấp chính quyền không có những giải pháp thúc đẩy tích tụ tập trung những diện tích đất đai nhỏ lẻ để xây dựng cánh đồng lớn thì khó có thể khuyến khích nông dân mở rộng sản xuất, xây dựng nông trang, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Về nguồn lực tài chính, lượng vốn tiết kiệm để đầu tư tái sản xuất thấp, cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay cũng ít do thiếu tài sản bảo đảm.

Hai là, tại Việt Nam, việc triển khai chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp đang ở mức rất khiêm tốn8. Đối với công tác quản lý, chuyển đổi số đang được ứng dụng mạnh mẽ ở chính quyền điện tử, chính phủ điện tử và chữ ký số trong công tác quản lý là chính. Đối với sản xuất, quản lý mã số vùng trồng hay truy xuất nguồn gốc nông sản còn tương đối hạn chế. Thương mại điện tử nông nghiệp cũng cần đẩy mạnh hơn nữa.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp, hộ sản xuất phần lớn chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển đổi số do chưa có cơ sở dữ liệu lớn phục vụ sản xuất, thiếu minh bạch về nguồn gốc sản phẩm và thiếu kết nối chia sẻ thông tin của các giai đoạn: sản xuất, quản lý, logistics, thương mại nông sản. 

Ba là, thiếu cơ chế giám sát, kiểm tra độc lập và thiếu hệ thống tiêu chí và bộ chỉ số đánh giá chuyên biệt. Công tác kiểm tra và đánh giá tiến độ chuyển đổi số chủ yếu do các cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường hoặc tại các địa phương tự thực hiện còn thiếu khách quan và ít có sự giám sát độc lập. Việc đánh giá kết quả thường mang tính báo cáo hành chính, chưa phản ánh đúng thực tế ứng dụng công nghệ tại cơ sở. 

Dữ liệu phục vụ đánh giá chưa được tích hợp từ các nguồn (doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân…) mà chủ yếu dựa vào báo cáo từ các đơn vị nhà nước. Thiếu cơ sở dữ liệu mở và cập nhật thường xuyên để theo dõi tiến trình chuyển đổi số theo thời gian. Việc đánh giá vẫn chủ yếu mang tính định tính, thiếu cơ sở khoa học và thống nhất giữa các địa phương. Một số chỉ số như mức độ ứng dụng công nghệ số, hiệu quả sản xuất, năng suất… chưa được số hóa và cập nhật thường xuyên.

5. Một số giải pháp thực hiện

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý và chính sách, trong đó cần có các nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết về các lĩnh vực cụ thể như ứng dụng công nghệ IoT trong sản xuất, truy xuất nguồn gốc nông sản, thương mại điện tử cho sản phẩm nông nghiệp và các tiêu chuẩn về dữ liệu nông nghiệp. Bên cạnh đó, các gói hỗ trợ tín dụng ưu đãi, chính sách giảm thuế hoặc các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp (startup) trong lĩnh vực nông nghiệp số cần được mở rộng; có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ lớn đầu tư vào nông nghiệp. Nhà nước cần thiết lập các khu vực thử nghiệm chính sách cho các mô hình chuyển đổi số nông nghiệp mới, cho phép các doanh nghiệp và hợp tác xã thử nghiệm các giải pháp công nghệ mà không bị ràng buộc quá nhiều bởi các quy định hiện hành, từ đó rút ra bài học và hoàn thiện chính sách.

Thứ hai, xây dựng lộ trình chuyển đổi số nông nghiệp quốc gia rõ ràng. Lộ trình này cần xác định các mục tiêu, ưu tiên các dự án trọng điểm theo từng giai đoạn (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn). Nhà nước cũng có thể thành lập các nhóm công tác chuyên trách với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan (BộNông nghiệp và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ), các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp. Các nhóm này chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch chi tiết và điều phối triển khai các dự án chuyển đổi số. Cũng có thể triển khai các dự án chuyển đổi số điểm tại các vùng nông nghiệp trọng điểm, các hợp tác xã kiểu mới để làm mẫu điển hình, tạo hiệu ứng lan tỏa và rút kinh nghiệm cho việc nhân rộng.

Thứ ba, xây dựng cơ chế giám sát đa chiều, kết hợp giám sát từ trên xuống (của cơ quan nhà nước) và giám sát từ dưới lên (từ cộng đồng, người dân, doanh nghiệp). Ứng dụng công nghệ số để giám sát tiến độ và hiệu quả của các dự án chuyển đổi số nông nghiệp. Đồng thời, thiết lập bộ chỉ số đánh giá chuyên biệt, phát triển bộ chỉ số (KPIs) rõ ràng, định lượng và có thể đo lường được cho chuyển đổi sốnông nghiệp, bao gồm các tiêu chí về mức độ ứng dụng công nghệ, hiệu quả kinh tế, tác động xã hội, và tính bền vững. Bộ chỉ số này cần được công khai để các bên liên quan dễ dàng theo dõi và đánh giá.

Thứ tư, cần phát triển hạ tầng số, đầu tư mạnh vào hạ tầng viễn thông ở khu vực nông thôn, bảo đảm vùng phủ sóng internet rộng khắp và chất lượng cao. Phát triển các nền tảng dữ liệu lớn (Big Data) và điện toán đám mây (Cloud Computing) chuyên biệt cho nông nghiệp.

6. Kết luận

Phát triển kinh tế số nói chung và phát triển kinh tế số nông nghiệp mang lại nhiều lợi ích trong hiện tại và lâu dài, do vậy sẽ trở thành xu hướng tất yếu của tất cả các quốc gia. Rất nhiều quốc gia phát triển đã có những thành tựu thực sự ấn tượng, giảm sự phụ thuộc vào môi trường tự nhiên, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực vào môi trường, phát triển nông thôn, nông dân hiện đại và nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống. 

Nhà nước là chủ thể tạo dựng và thúc đẩy phát triển nền kinh tế số nông nghiệp, nhất là đối với các quốc gia đi sau như Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu, vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế số nông nghiệp cũng còn những hạn chế nhất định. Việc chỉ ra những thành tựu và những hạn chế có ý nghĩa quan trọng phát triển kinh tế số nông nghiệp trong thời gian tới.

Chú thích:

1. Chuyển đổi số trong nông nghiệp là gì? Đâu là giải pháp hiệu quả. https://digital.fpt.com/linh-vuc/nong-lam-nghiep-thuy-san/chuyen-doi-so-trong-nong-nghiep.html

2. Phấn đấu đến năm 2030 cả nước sẽ có 45.000 hợp tác xã. https://vneconomy.vn/phan-dau-den-nam-2030-ca-nuoc-se-co-45-000-hop-tac-xa.htm

3. Báo cáo Chỉ số thương mại điện tử Việt Nam. https://vecom.vn/bao-cao-chi-so-thuong-mai-dien-tu-viet-nam-ebi-2024

4. Sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị: Liên kết còn lỏng lẻo. https://thoibaonganhang.vn/san-xuat-nong-nghiep-theo-chuoi-gia-tri-lien-ket-con-long-leo-155437.html

5, 6. Nông sản Việt có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. https://vtv.vn/kinh-te/nong-san-viet-co-mat-o-gan-200-quoc-gia-va-vung-lanh-tho-20241230143815354.htm

7. Liên kết chuỗi giá trị nông sản vướng nhiều rào cản. https://vneconomy.vn/techconnect//lien-ket-chuoi-gia-tri-nong-san-vuong-nhieu-rao-can.htm

8. Phát biểu của ông Đỗ Đình Phương – Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp tại Hội thảo khuyến nông quốc gia đô thị lần I năm 2023: “Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp”, ngày 26/5/2023, tại Trung tâm văn hóa Kinh Bắc, tỉnh Bắc Ninh.

Tài liệu tham khảo:

1. Trần Hoàng Hải, Quách Thị Hà (2023). Đặc trưng của kinh tế số và một số giải pháp thúc đẩy kinh tế số ở Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 11, tháng 4/2023.

2. Đặng Việt Phương (2023). Chuyển đổi số trong nông nghiệp, một số thách thức và giải pháp.Hội thảo quốc gia Khung lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế về phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân gắn với chuyển đổi số quốc gia, đô thị hóa và thích ứng với biến đổi khí hậu.

3. Hoàng Tuấn Sinh, Nguyễn Thị Thanh Tâm (2022). Cơ hội và thách thức chuyển đổi số trong nông nghiệp hướng đến nền kinh tế công nghiệp 4.0. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Quảng Nam số 30.

4. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 2289/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 về Chiến lược quốc gia về cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030.

5. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 về Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030.

6. Chuyển đổi số trong nông nghiệp: “Đưa chợ về vườn”. https://vneconomy.vn/chuyen-doi-so-trong-nong-nghiep-dua-cho-ve-vuon.htm

7. Chuyển đổi số trong nông nghiệp là gì? Đâu là giải pháp hiệu quả.https://digital.fpt.com.vn/linh-vuc/nong-lam-nghiep-thuy-san/chuyen-doi-so-trong-nong-nghiep-la-gi.html.

8. Chuyển đổi số trong nông nghiệp nhằm phát triển bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/4172-chuyen-doi-so-trong-nong-nghiep-nham-phat-trien-ben-vung-nganh-nong-nghiep-viet-nam.html.

9. Nông nghiệp Việt Nam: Điểm sáng năm 2023 và giải pháp cho năm 2024. https://kinhtevadubao.vn/nong-nghiep-viet-nam-diem-sang-nam-2023-va-giai-phap-cho-nam-2024-28174.html

10. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp Việt Nam. https://tapchitaichinh.vn/mot-so-giai-phap-thuc-day-chuyen-doi-so-trong-nganh-nong-nghiep-viet-nam.html

11. Mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo hình thức hợp đồng giữa doanh nghiệp và nông hộ. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/825268/mo-hinh-lien-ket-san-xuat%2C-tieu-thu-san-pham-nong-nghiep-theo-hinh-thuc-hop-dong-giua-doanh-nghiep-va-nong-ho.aspx

12. Thách thức và giải pháp tài chính trong phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam.https://tapchinganhang.gov.vn/thach-thuc-va-giai-phap-tai-chinh-trong-phat-trien-nong-nghiep-ben-vung-tai-viet-nam.htm

13. Phát triển nông nghiệp bền vững nhờ số hóa. https://vneconomy.vn/phat-trien-nong-nghiep-ben-vung-nho-so-hoa.htm.

14. Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Việt Nam: Khó khăn và triển vọng. https://tapchitaichinh.vn/nong-nghiep-ung-dung-cong-nghe-cao-o-viet-nam-kho-khan-va-trien-vong.html

15.  Phát triển nguồn nhân lực cho ngành Nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/11/16/phat-trien-nguon-nhan-luc-cho-nganh-nong-nghiep-cong-nghe-cao-o-viet-nam-trong-thoi-ky-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te/