Công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng trong tình hình mới

TS. Phạm Hồng Vĩnh
TS. Nguyễn Văn Tuân
Ban Tổ chức Trung ương

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết đã khái quát, đánh giá kết quả về công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian qua, trong đó tập trung phân tích những kết quả đạt được và một số hạn chế, bất cập liên quan đến tổ chức cơ sở đảng, đội ngũ đảng viên, công tác kiểm tra, giám sát và tài chính đảng. Trên cơ sở đó, bài viết đã chỉ ra một số vấn đề đặt ra đối với công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng trong bối cảnh trong tình hình mới, nhất là một số bất cập cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết đánh giá trong thi hành Điều lệ Đảng nhằm tiếp tục hoàn thiện nội dung, nâng cao hiệu quả thi hành Điều lệ Đảng, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới.

Từ khóa: Điều lệ Đảng, hoạt động kiểm tra, giám sát, tổ chức bộ máy, xây dựng Đảng.

1. Khái quát về công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng

Thời gian qua, công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng đặc biệt chú trọng, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt và đạt được nhiều kết quả rõ rệt. Kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hiệu quả giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó xây dựng Đảng được tập trung đẩy mạnh, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, tăng cường. Đề cao trách nhiệm của cấp ủy, sự gương mẫu của cấp trên và người đứng đầu các cấp; phát huy dân chủ; tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của Nhân dân. Nhiều vấn đề khó, phức tạp đặt ra và thực hiện từ nhiều năm trước nhưng hiệu quả thấp, đến nay đã đạt được kết quả quan trọng.

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết để lãnh đạo toàn diện, đồng bộ các mặt của công tác xây dựng Đảng và tổ chức thực hiện nhất quán từ Trung ương đến cơ sở. Công tác xây dựng Đảng về chính trị được đặc biệt chú trọng; bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được nâng lên. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện trách nhiệm nêu gương đạt kết quả tích cực. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ được thực hiện quyết liệt, có chuyển biến rõ nét.

Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế của hệ thống chính trị đạt kết quả quan trọng, rõ nét. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm hơn và có chuyển biến tích cực. Công tác cán bộ có nhiều đổi mới, đội ngũ cán bộ ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; kỷ luật, kỷ cương trong Đảng được siết chặt, pháp luật Nhà nước được đề cao. Công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là dân vận chính quyền có bước đổi mới, hiệu quả được nâng lên; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội có chuyển biến tích cực; khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân không ngừng được củng cố, tăng cường.

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh, có bước đột phá, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, rõ rệt; tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, có chiều hướng thuyên giảm. Phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước đổi mới, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được nâng lên.

Công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ này đã đạt được kết quả toàn diện, trong đó nổi bật là: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tinh giản biên chế của hệ thống chính trị; đổi mới công tác cán bộ và ngăn chặn tình trạng chạy chức, chạy quyền; tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, xử lý nghiêm những tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.

Kết quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần quan trọng để đất nước có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay; Đảng đã đoàn kết, thống nhất và trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của Nhân dân đối với Đảng được củng cố, tăng cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới1.

Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng cũng còn tồn tại một số hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số nghị quyết của Đảng còn chậm; tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Công tác tư tưởng còn có mặt hạn chế, thiếu kịp thời, tính thuyết phục chưa cao. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng được yêu cầu, một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng.

Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động ở một số nơi thực hiện thiếu quyết liệt, chưa đạt mục tiêu đề ra. Tinh giản biên chế chưa thực sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, chưa được củng cố kịp thời. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc; chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Công tác kiểm tra ở một số nơi chưa thường xuyên, quyết liệt, thiếu trọng tâm, trọng điểm; công tác giám sát còn hẹp về phạm vi, đối tượng, kết quả chưa thực chất. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa chuyển biến rõ rệt; tham nhũng, lãng phí vẫn còn diễn biến phức tạp. Công tác dân vận có mặt còn hạn chế; việc nắm, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là đối với địa bàn phức tạp chưa kịp thời, sâu sát. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội ở một số nơi chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới2.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò là văn bản cơ bản quy định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, là nền tảng pháp lý và tổ chức quan trọng để Đảng thực hiện chức năng lãnh đạo toàn diện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều lệ không chỉ phản ánh hệ thống nguyên tắc cơ bản mà còn là công cụ quan trọng trong việc điều chỉnh và tổ chức các hoạt động của Đảng, góp phần duy trì sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự hiệu quả trong lãnh đạo đất nước. Để Điều lệ Đảng thực sự đi vào cuộc sống thì những quy định cụ thể hóa việc thực hiện Điều lệ Đảng sau mỗi kỳ Đại hội Đảng là rất quan trọng và cần thiết.

Tuy nhiên, quy định, hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng về công tác quản lý đảng viên chưa bao quát hết tình hình thực tiễn3, việc cụ thể hóa Điều lệ Đảng về nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng còn có nội dung chưa phù hợp…4. Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng các quy định cũng cho thấy, còn có những vướng mắc, bất cập do các quy định hướng dẫn thực hiện Điều lệ Đảng chưa thực sự đồng bộ và thống nhất, chưa dự liệu hết những tình huống có thể xảy ra trong thực tế. Các quy định đã ban hành, như: Quy định số 29-QĐ/TW ngày 25/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII), về thi hành Điều lệ Đảng; Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng…

Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: những vướng mắc, bất cập nêu trên chủ yếu liên quan đến nội dung trong các quy định, hướng dẫn của Trung ương, nhưng cũng có một số nội dung cần phải nghiên cứu để đề xuất bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện nay và phù hợp với thực tế5. Do đó, việc thực hiện Quy định số 24-QĐ/TW ngày 30/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng (viết tắt là Quy định số 24-QĐ/TW) nhằm cập nhật, bổ sung, sửa đổi và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành Điều lệ Đảng thời gian qua.

Trong bối cảnh thế giới đang có nhiều biến đổi nhanh chóng và phức tạp, công tác xây dựng Đảng đối diện với không ít thách thức và yêu cầu mới, nhất là khi Việt Nam triển khai thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức sắp xếp bộ máy, thực hiện sáp nhập các tỉnh, các xã, bỏ cấp huyện và thực hiện chính quyền hai cấp tỉnh và xã trên phạm vi toàn quốc. Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức và công nghệ số cùng những biến động về kinh tế – chính trị toàn cầu đã tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng đồng thời đặt ra những vấn đề phức tạp đối với Đảng. Để duy trì vai trò lãnh đạo toàn diện, Đảng cần phải không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, tổ chức. Điều này không chỉ giúp giải quyết những vấn đề nội tại mà còn tăng cường hiệu quả lãnh đạo, phục vụ tốt hơn các nhiệm vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Trong lịch sử lãnh đạo và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vai trò quan trọng đặc biệt và quyết định trong việc định hướng, xây dựng và phát triển xã hội Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trước những yêu cầu mới trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển, đang đặt ra những thách thức lớn cho công tác xây dựng Đảng. Việc củng cố tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền và bổ sung Điều lệ Đảng là cần thiết để đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia trong giai đoạn phát triển hiện nay. Như vậy, công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới không chỉ tập trung vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng mà còn cần chú trọng đến công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng trong bối cảnh tình hình mới.

2. Một số vấn đề đặt ra đối với công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng trong tình hình mới

Thời gian qua, công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng mặc dù đã đạt được những thành tựu, kết quả quan trọng nhưng trong bối cảnh tình hình mới đã và đang đặt ra một số vấn đề, cụ thể như sau:

Thứ nhất, trong công tác xây dựng Đảng trong bối cảnh tình hình mới.

– Về công tác xây dựng Đảng về chính trị.

Trong bối cảnh tình hình mới, công tác xây dựng Đảng về chính trị đang đối mặt với nhiều thách thức và vấn đề quan trọng, có thể kể đến như sau:

(1) Đảng cần tiếp tục nghiên cứu, đề ra những chủ trương phù hợp, sát hơn với thực tiễn, xác định rõ, phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình triển khai công việc;

(2) Đảng phải kiên định với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên để không bị dao động trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới;

(3) Cần nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đặc biệt là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;

(4) Trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế diễn ra sôi động và sâu rộng, Đảng cần đề cao cảnh giác trước những biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, chủ nghĩa cá nhân và phải có các biện pháp quyết liệt trong việc xử lý các hành vi suy thoái này;

(5) Đảng cần phải duy trì sự đoàn kết, thống nhất về mặt chính trị, tư tưởng giữa các tầng lớp lãnh đạo và đảng viên. Trong bối cảnh tình hình mới, sự chia rẽ hay bất đồng quan điểm có thể dẫn đến mất ổn định nội bộ, ảnh hưởng đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng.

– Về công tác xây dựng Đảng về tư tưởng.

Trong bối cảnh tình hình mới, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng đối diện với nhiều thách thức, đòi hỏi sự thống nhất, đổi mới và nâng cao chất lượng nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.

(1) Đảng cần củng cố nhận thức và niềm tin của cán bộ, đảng viên đối với các giá trị cốt lõi này, đồng thời đấu tranh quyết liệt với các quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ, phát triển và kiên định mục tiêu, lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội;

(2) Công tác tư tưởng cần phải được đổi mới để đáp ứng yêu cầu của thời đại mới, trong đó chú trọng vào cập nhật nội dung giáo dục chính trị, sử dụng các phương pháp mới, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để truyền tải nhanh chóng, hiệu quả các thông tin chính thống và làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng. Các buổi sinh hoạt tư tưởng cần mang tính thực tiễn hơn, gần gũi với cuộc sống của đảng viên;

(3) Đảng cần tăng cường giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức về trách nhiệm và vai trò của mỗi đảng viên, đặc biệt là trong việc bảo vệ lợi ích của quốc gia và dân tộc;

(4) Cần phải đẩy mạnh việc phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó quan trọng là báo chí và truyền thông trong công tác tư tưởng. Trong thời đại kỹ thuật số, Đảng cần làm tốt công tác định hướng dư luận, thông qua các kênh truyền thông chính thức để đối phó với những thông tin sai lệch và tiêu cực, từ đó củng cố niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa;

(5) Đảng cần chú trọng đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, bảo đảm họ có đủ năng lực để triển khai nhiệm vụ trong bối cảnh mới, đáp ứng yêu cầu của cả thời đại và thực tiễn;

(6) Cần tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đảng cần đẩy mạnh nghiên cứu các vấn đề mới phát sinh trong xã hội, từ đó phát triển, bổ sung cho nền tảng tư tưởng của Đảng một cách kịp thời, sát với thực tế và đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập quốc tế.

– Công tác xây dựng Đảng về đạo đức.

Công tác xây dựng Đảng về đạo đức trong bối cảnh tình hình mới đặt ra nhiều vấn đề quan trọng nhằm bảo đảm Đảng luôn trong sạch, vững mạnh và có đủ uy tín lãnh đạo đất nước cần chú ý các nội dung, như:

(1) Đảng phải kiên quyết giữ vững các giá trị cốt lõi của đạo đức cách mạng như cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đồng thời, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, lãnh đạo trong đời sống và công việc;

(2) Công tác kiểm tra, giám sát cần được đẩy mạnh để phát hiện sớm và ngăn chặn các hành vi suy thoái đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức vụ đã ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của Đảng;

(3) Đảng cần tiếp tục đề cao tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là các lãnh đạo cấp cao nhằm giúp tăng cường niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời tạo sự đồng thuận xã hội trong việc thực hiện các chính sách và chủ trương của Đảng và Nhà nước;

(4) Đảng cần tổ chức các chương trình giáo dục, đào tạo về đạo đức cách mạng, nhấn mạnh vào tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa;

(5) Trong tình hình mới, Đảng cần tiếp tục phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình nhằm khuyến khích các cán bộ, đảng viên dũng cảm chỉ ra những sai lầm của bản thân và đồng nghiệp, đồng thời tiếp thu các ý kiến phê bình một cách cầu thị, có trách nhiệm;

(6) Trong bối cảnh mới, Đảng cần tăng cường đối thoại với Nhân dân, lắng nghe và giải quyết các bức xúc, khó khăn của người dân một cách công tâm, khách quan.

– Về xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị.

Công tác xây dựng Đảng về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị trong bối cảnh mới đối mặt với nhiều vấn đề cấp bách, chủ yếu đến từ yêu cầu cải cách hành chính, quản lý hiệu quả và đổi mới hệ thống chính trị để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

(1) Đảng cần tiếp tục hoàn thiện, sắp xếp lại bộ máy từ trung ương đến cơ sở, bảo đảm sự tinh giản nhưng vẫn hiệu quả và không làm giảm chất lượng hoạt động. Trong bối cảnh mới, Đảng cần xây dựng cơ chế quản lý, phân quyền, trao quyền cho địa phương, đơn vị cơ sở nhằm tạo sự chủ động, sáng tạo trong giải quyết các vấn đề phát sinh tại địa phương. Đồng thời, cần tăng cường cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực để ngăn chặn tình trạng lạm quyền, lợi ích nhóm;

(2) Đảng cần đề ra các giải pháp nâng cao tính liên kết, bảo đảm các cơ quan cùng thực hiện mục tiêu chung một cách nhịp nhàng, hiệu quả;

(3) Cần tiếp tục cải cách công tác cán bộ, từ khâu tuyển chọn, đào tạo đến đánh giá, bổ nhiệm với trọng tâm là phát triển đội ngũ cán bộ có đức, có tài, có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung và khả năng giải quyết vấn đề. Đồng thời, tiếp tục triển khai xây dựng vị trí việc làm phù hợp với sự phát triển cả về chất lượng và số lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên;

(4) Đảng cần đề cao vai trò của Nhân dân trong giám sát, đánh giá và đóng góp ý kiến vào công tác xây dựng tổ chức bộ máy, từ đó tạo điều kiện để xây dựng hệ thống chính trị thực sự phục vụ Nhân dân;

(5) Cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục không cần thiết, tinh giản bộ máy và nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, giúp hệ thống chính trị hoạt động hiệu quả hơn, giảm bớt gánh nặng cho Nhân dân và doanh nghiệp trong quá trình giải quyết công việc.

– Về xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên trong bối cảnh tình hình mới đang đối diện với nhiều thách thức, đòi hỏi Đảng phải đổi mới mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết như sau:

(1) Cần tập trung vào việc củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, bồi dưỡng năng lực lãnh đạo và quản lý cho đội ngũ cán bộ, đặc biệt là bí thư chi bộ. Đồng thời, phải nâng cao tính chủ động và khả năng tổ chức thực hiện nhiệm vụ của các cơ sở đảng;

(2) Cần đổi mới nội dung và phương pháp sinh hoạt chi bộ, bảo đảm các buổi sinh hoạt thực sự mang tính xây dựng gắn kết với nhiệm vụ cụ thể của tổ chức và địa phương. Cần khuyến khích các chi bộ sử dụng các tình huống thực tế để thảo luận, giải quyết vấn đề, nâng cao ý thức trách nhiệm của đảng viên;

(3) Cần phải nâng cao tiêu chuẩn kết nạp đảng viên, bảo đảm việc chọn lựa người có phẩm chất đạo đức, năng lực tốt và có tư duy chính trị vững vàng. Quy trình thẩm tra, đánh giá phải chặt chẽ, tránh tình trạng kết nạp đảng viên thiếu minh bạch;

(4) Đảng cần xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho đảng viên về chính trị, tư tưởng, kỹ năng quản lý và chuyên môn. Bên cạnh đó, cần có các chương trình bồi dưỡng trực tuyến để đảng viên tự học, nâng cao kiến thức theo xu hướng phát triển công nghệ;

(5) Cần xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá đảng viên cụ thể, khách quan, gắn liền với kết quả thực hiện nhiệm vụ và đóng góp thực tế của từng cá nhân. Quy trình đánh giá cần được công khai, minh bạch, có sự tham gia của quần chúng nhân dân trong việc đánh giá đảng viên.

– Về công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ.

Trong bối cảnh tình hình mới, công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng còn gặp phải một số vấn đề đặt ra cần phải giải quyết để bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo, tăng cường sức mạnh tổ chức và duy trì tính chính danh.

(1) Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, yêu cầu về chất lượng của đội ngũ cán bộ ngày càng cao, do đó, cán bộ không chỉ cần có phẩm chất chính trị vững vàng mà còn phải có năng lực chuyên môn và kỹ năng quản lý chuyên nghiệp, hiện đại để đáp ứng yêu cầu mới của quá trình phát triển đất nước;

(2) Nhiều nơi còn tình trạng nể nang, chưa chỉ rõ những cán bộ có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực6. Để giữ vững niềm tin, công tác phòng, chống tham nhũng cần được thực hiện mạnh mẽ, quyết liệt và minh bạch hơn;

(3) Việc đánh giá, lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ cần được tiến hành một cách công bằng, khách quan và khoa học hơn. Do đó, đòi hỏi phải có những tiêu chí đánh giá rõ ràng, gắn kết với hiệu quả thực tế công việc, tránh những đánh giá mang tính hình thức. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến việc quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ và cán bộ trẻ để bảo đảm tính kế thừa và phát triển bền vững của Đảng;

(4) Trong bối cảnh các thế lực thù địch ngày càng gia tăng các hoạt động chống phá, đòi hỏi công tác bảo vệ chính trị nội bộ phải được chủ động, tăng cường, nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của các tư tưởng sai trái vào bộ máy lãnh đạo;

(5) Sự phát triển của công nghệ thông tin và mạng xã hội đang tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức cho công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đặc biệt là trong việc kiểm soát thông tin, bảo vệ bí mật chính trị và ngăn chặn các thông tin xuyên tạc. Bối cảnh mới cũng đòi hỏi phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để duy trì sự đoàn kết nội bộ, ngăn chặn tình trạng phân hóa, mất đoàn kết trong đội ngũ cán bộ.

– Về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Trong bối cảnh tình hình mới, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, đòi hỏi sự đổi mới và tăng cường hiệu quả để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập.

(1) Việc phát hiện và xử lý các sai phạm trong Đảng cần phải được thực hiện một cách nhanh chóng, nghiêm minh, bảo đảm tính công bằng và “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, các cơ quan kiểm tra, giám sát phải hoạt động chặt chẽ, minh bạch, sử dụng các biện pháp kiểm tra đa dạng, hiệu quả, đặc biệt là áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giám sát;

(2) Tăng cường kiểm tra từ cấp cơ sở, bảo đảm sự đồng bộ và kịp thời trong việc phát hiện các vấn đề nảy sinh. Đảng cũng cần chú trọng nâng cao ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc tuân thủ các quy định, đồng thời khuyến khích văn hóa phê bình và tự phê bình để ngăn chặn suy thoái, tham nhũng từ gốc rễ;

(3) Việc xử lý kỷ luật trong Đảng cần phải nghiêm khắc nhưng cũng phải mang tính nhân văn, giúp cán bộ, đảng viên sau khi bị xử lý có cơ hội sửa chữa và phấn đấu vươn lên. Công tác này cần được triển khai đồng bộ, khoa học, tạo sự đoàn kết trong Đảng, qua đó nâng cao niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và hệ thống chính trị.

– Về công tác dân vận và tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân.

Trong bối cảnh tình hình mới, công tác dân vận và tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.

(1) Việc hiểu và thực hiện công tác dân vận tại một số địa phương vẫn còn hạn chế, dẫn đến việc thông tin từ Đảng chưa đến được tay Nhân dân một cách kịp thời và đầy đủ. Điều này làm cho người dân chưa thực sự hiểu rõ các chủ trương, chính sách của Đảng, từ đó giảm sút niềm tin và sự đồng thuận của Nhân dân đối với các quyết sách của Đảng;

(2) Mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân cần được củng cố hơn nữa thông qua việc lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của Nhân dân. Do đó, cần phải tạo ra những kênh thông tin hai chiều hiệu quả hơn nhằm thúc đẩy sự giao tiếp giữa Đảng và Nhân dân;

(3) Công tác dân vận cũng cần phải đa dạng hóa hình thức, nội dung hoạt động để phù hợp với từng đối tượng, vùng miền. Việc tổ chức các phong trào, hoạt động thiết thực, gần gũi với đời sống của Nhân dân sẽ tạo ra sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa Đảng và quần chúng. Hơn nữa, cán bộ làm công tác dân vận cần nâng cao năng lực, phẩm chất để có thể thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa Đảng và Nhân dân;

(4) Tăng cường giáo dục, tuyên truyền về vai trò và trách nhiệm của công tác dân vận trong hệ thống chính trị là rất cần thiết;

(5) Tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân một cách thường xuyên, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và phát hiện, đấu tranh đẩy lùi những hạn chế, vi phạm của cán bộ, đảng viên, từ đó tạo niềm tin và sự đồng thuận của Nhân dân đối với các quyết sách của Đảng.

– Về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí

Trong bối cảnh tình hình mới, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và lãng phí đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cần được giải quyết để bảo đảm sự trong sạch và uy tín của Đảng.

(1) Một trong những vấn đề lớn nhất là sự tồn tại và phát triển của các hiện tượng tham nhũng và lãng phí trong bộ máy nhà nước;

(2) Cần thiết phải nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng trong công tác phát hiện, điều tra và xử lý tham nhũng, bảo đảm tính nghiêm minh và công bằng;

(3) Việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng và lãng phí trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cũng là một vấn đề quan trọng. Do đó, cần phải tạo ra ý thức trách nhiệm và sự đồng lòng trong xã hội để cùng nhau đấu tranh chống tham nhũng, từ đó hình thành một môi trường chính trị và xã hội trong sạch, lành mạnh;

(4) Việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách phòng ngừa tham nhũng, lãng phí cũng rất cần thiết. Do đó, cần phải cải cách mạnh mẽ các quy trình, thủ tục hành chính, nâng cao tính minh bạch trong quản lý tài chính, ngân sách nhà nước cũng như xây dựng các cơ chế giám sát hiệu quả để phòng ngừa từ gốc rễ các hiện tượng tham nhũng.

– Về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

Tiếp tục đổi mới tư duy lãnh đạo để phù hợp với yêu cầu phát triển trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa, đổi mới việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghị quyết bảo đảm tính nghiêm minh, hiệu quả đáp ứng yêu cầu đề ra.

(1) Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, cần tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước một cách đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả hơn. Đẩy mạnh việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước một cách đầy đủ, kịp thời. Cấp ủy, tổ chức đảng cần chú trọng trong việc ban hành nghị quyết bảo đảm phù hợp và bám sát thực tiễn, mang tính khả thi. Do đó, Đảng cần xác định rõ hơn vai trò và trách nhiệm của mình trong việc lãnh đạo, dẫn dắt đất nước, từ đó xây dựng những phương thức lãnh đạo phù hợp, hiệu quả hơn;

(2) Việc tăng cường dân chủ và sự tham gia của Nhân dân trong quá trình lãnh đạo cũng là một vấn đề cần được chú trọng. Đảng cần phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong việc đóng góp ý kiến, phản ánh nguyện vọng và mong muốn của mình đối với các chính sách, quyết định của Đảng;

(3) Công tác đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng cũng cần được nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng. Cần có những bước đi mạnh mẽ trong việc tinh gọn bộ máy, giảm thiểu thủ tục hành chính, từ đó nâng cao hiệu quả làm việc và giảm bớt gánh nặng cho cán bộ, đảng viên. Việc nâng cao năng lực và trình độ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng là điều cần thiết để đáp ứng yêu cầu của một phương thức lãnh đạo mới, hiện đại;

(4) Đảng cần khai thác và sử dụng hiệu quả công nghệ để nâng cao khả năng giám sát, chỉ đạo và quản lý, đồng thời tạo điều kiện cho việc kết nối và giao tiếp giữa Đảng với Nhân dân.

Thứ hai, trong việc thi hành Điều lệ Đảng trong bối cảnh tình hình mới.

Những năm gần đây, Đảng đã ban hành nhiều văn bản7 quy định việc thi hành Điều lệ Đảng phù hợp với yêu cầu bối cảnh tình hình mới. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan tham mưu, giúp việc ở Trung ương nghiên cứu, trình Trung ương bổ sung và ban hành nhiều quy định, hướng dẫn có liên quan nhằm khắc phục vướng mắc, bất cập trong thi hành Điều lệ Đảng. Việc thi hành các nội dung của Điều lệ Đảng đã được các cấp ủy, tổ chức đảng triển khai thực hiện nghiêm túc, tạo chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả toàn diện, rõ rệt. Tuy nhiên, công tác thi hành Điều lệ Đảng đang đặt ra một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tổng kết trong thời gian tới. Cụ thể:

– Về đảng viên (Chương I)

Trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong và ngoài nước đang thay đổi nhanh chóng, việc thi hành Điều lệ Đảng về đảng viên đang đối mặt với nhiều thách thức mới. Điều lệ Đảng, với vai trò là kim chỉ nam định hướng cho hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên, cần được thi hành nghiêm túc, toàn diện để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, bối cảnh mới đã đặt ra một số vấn đề quan trọng liên quan đến công tác quản lý và phát triển đảng viên, cụ thể như sau:

(1) Đảng cần đối mặt với thách thức về việc nâng cao trình độ chính trị, đạo đức và năng lực của đảng viên. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và toàn cầu hóa đã làm thay đổi cách đảng viên tiếp cận thông tin và tư duy. Điều này đòi hỏi Đảng phải liên tục cập nhật và đổi mới phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên;

(2) Bối cảnh hiện nay, đặt ra yêu cầu cao hơn trong việc tuyển chọn và kết nạp đảng viên mới. Sự phát triển của kinh tế thị trường và xã hội đa chiều tạo ra nhiều quan điểm, xu hướng khác nhau trong thanh niên. Đảng cần có các tiêu chuẩn rõ ràng và nghiêm túc hơn trong việc đánh giá tư tưởng, năng lực và trách nhiệm xã hội của những người được kết nạp nhằm duy trì tính tiên phong và gương mẫu của đội ngũ đảng viên;

(3) Trong tình hình mới, sự phân tán về địa lý và công việc của đảng viên là một thách thức lớn đối với công tác quản lý. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng lao động, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã làm thay đổi môi trường làm việc và sinh hoạt của nhiều đảng viên. Việc ứng dụng công nghệ trong quản lý đảng viên cần được đẩy mạnh, đồng thời cần có các giải pháp linh hoạt để bảo đảm mọi đảng viên đều được giám sát và sinh hoạt đảng đầy đủ, đúng quy định;

(4) Đảng cần có quy định thống nhất để thực hiện một cách đồng bộ trong tất cả các cấp ủy, tổ chức đảng, như: về Điều lệ Đảng quy định người được kết nạp vào Đảng phải trải qua thời kỳ dự bị 12 tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp; việc triển khai thực hiện hướng dẫn về kết nạp đảng đối với đối tượng là công nhân trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước phải có kết luận bằng văn bản về tiêu chuẩn chính trị còn gặp khó khăn8…;

(5) Đòi hỏi sự tăng cường giám sát chặt chẽ từ cấp trên cũng như trách nhiệm của tổ chức đảng ở cơ sở trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm. Thậm chí, cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân;

(6) Trong bối cảnh mới, thách thức đặt ra là làm thế nào để mỗi đảng viên có thể thích nghi và đáp ứng tốt những yêu cầu bảo vệ Đảng, Tổ quốc và Nhân dân trong một xã hội đang thay đổi không ngừng. Đảng viên cần phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trong các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng đất nước và bảo vệ chế độ. Điều lệ Đảng quy định đảng viên phải là những người đi đầu trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế và giữ gìn quốc phòng, an ninh.

– Về nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng (Chương II).

Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Tuy nhiên, trong thực tế, mối quan hệ giữa tập thể, cá nhân và người đứng đầu vẫn chưa được quy định cụ thể, dẫn đến tình trạng khó xác định trách nhiệm cá nhân khi xảy ra sai phạm.

(1) Việc thiếu rõ ràng trong quy định này có thể dẫn đến sự lúng túng trong việc xử lý các vấn đề phát sinh, tạo điều kiện cho sự né tránh trách nhiệm. Do đó, cần phải xây dựng các quy định chi tiết hơn về trách nhiệm và quyền hạn của cá nhân, đặc biệt là người đứng đầu trong từng tổ chức Đảng để nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình;

(2) Một bộ phận cấp ủy viên hiện nay chưa nắm vững và thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng dẫn đến việc vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, có thể ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của tổ chức. Do đó, cần có các biện pháp tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng và quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm của từng đảng viên và cấp ủy viên;

(3) Việc cụ thể hóa Điều lệ Đảng về nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức còn có những nội dung chưa phù hợp với tình hình thực tế. Vậy nên, cần có sự khảo sát, đánh giá thực trạng để điều chỉnh, bổ sung các nội dung trong Điều lệ cho phù hợp hơn với đặc điểm và yêu cầu thực tiễn của từng tổ chức Đảng;

(4) Quy định về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đảng như quy định về chức năng, nhiệm vụ của một số loại hình tổ chức Đảng tại các cơ quan, doanh nghiệp, đặc biệt là ở những nơi có đặc điểm riêng vẫn còn nhiều nội dung cần phải được cụ thể hóa;

(5) Việc thực hiện các quy định trong Điều lệ Đảng cần được giám sát chặt chẽ hơn. Cần phải có các biện pháp kiểm tra, đánh giá định kỳ để bảo đảm các tổ chức Đảng thực hiện nghiêm túc các quy định, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của Đảng trong việc lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị.

– Về cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp Trung ương (Chương III).

Vấn đề đặt ra như sau: (1) Cần tiếp tục thực hiện đúng, bảo đảm đầy đủ cơ cấu đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng theo đúng quy định; (2) Cần ban hành những văn bản quy định, hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng đúng, kịp thời.

– Về cơ quan lãnh đạo của Đảng ở các cấp địa phương (Chương IV)

Vấn đề đặt ra như sau: (1) Cơ cấu đại biểu dự đại hội theo ngành và theo địa phương chưa thật sự hợp lý, sự phân bổ đại biểu giữa các ngành và địa phương còn chưa cân đối, dẫn đến việc chưa phản ánh đầy đủ tính đại diện của các khu vực và lĩnh vực khác nhau. Do đó, cần tiếp tục thực hiện đúng, bảo đảm cơ cấu đại biểu theo quy định; (2) Cần triển khai việc cụ thể hóa và sửa đổi quy chế làm việc của một số cấp ủy địa phương đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn.

– Về tổ chức cơ sở đảng (Chương VI).

Vấn đề đặt ra như sau: (1) Cần tiếp tục hoàn chỉnh chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ bộ phận, phù hợp với thực tiễn và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định về việc lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở và báo cáo kịp thời để có hướng xử lý nhanh, chính xác, hiệu quả; (2) Chất lượng sinh hoạt chi bộ thường kỳ làm suy giảm khả năng quản lý và giám sát, ảnh hưởng đến kỷ luật và tính thống nhất trong sinh hoạt đảng cho nên cần quán triệt thực hiện đồng bộ, thống nhất, khắc phục khó khăn để công tác sinh hoạt đảng được hiệu quả, vướng mắc ở đâu cần báo cáo cấp ủy cấp trên để có hướng giải quyết kịp thời, hiệu quả; đòi hỏi có sự điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống văn bản quy định, cũng như tăng cường chỉ đạo để nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên trong tình hình mới.

– Về tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam (Chương VI).

(1) Hệ thống tổ chức đảng trong các doanh nghiệp thuộc Quân đội chưa được hoàn thiện và phù hợp với mô hình tổ chức mới, dẫn đến việc quản lý, lãnh đạo chưa được thực hiện hiệu quả. Vì thế, đòi hỏi có sự điều chỉnh, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; (2) Một số tổ chức đảng trong lực lượng Công an nhân dân, nơi không có tổ chức chính quyền tương ứng, gặp nhiều khó khăn và bất cập trong tổ chức và hoạt động. Vì vậy, cản trở khả năng lãnh đạo của tổ chức đảng tại những đơn vị này, gây ảnh hưởng đến sự phối hợp và thực thi nhiệm vụ, cho nên cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh các quy định hiện hành về cơ cấu tổ chức đảng trong lực lượng Công an nhân dân để phù hợp với đặc thù của các đơn vị không có chính quyền tương ứng; (3) Cơ chế phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo giữa cấp ủy công an cấp trên với cấp ủy địa phương cấp dưới còn thiếu chặt chẽ và chưa đồng bộ. Điều này làm giảm khả năng phối hợp giữa hai cấp ủy, ảnh hưởng đến hiệu quả chỉ đạo và điều hành trong công tác an ninh trật tự.

– Về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và ủy ban kiểm tra các cấp (Chương VII).

Đối với những vấn đề này đòi hỏi cần có sự điều chỉnh kịp thời các quy định, hướng dẫn, đồng thời tăng cường nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát để phù hợp với tình hình thực tế và bảo đảm tính nghiêm minh, hiệu quả trong quá trình thực hiện Điều lệ Đảng.

– Về khen thưởng và kỷ luật (Chương VIII).

Đòi hỏi cần có những điều chỉnh và cải tiến trong việc thực hiện quy định về khen thưởng và kỷ luật, bảo đảm sự công bằng, minh bạch và hiệu quả trong quá trình thi hành Điều lệ Đảng.

– Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội (Chương IX).

Đòi hỏi cần có sự rà soát, điều chỉnh trong cơ chế phân công, phối hợp để bảo đảm tính rõ ràng trong chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa các cơ quan lãnh đạo của Đảng, giúp nâng cao hiệu quả lãnh đạo trong tình hình mới.

– Đảng lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Chương XI).

Đòi hỏi các cấp ủy và tổ chức đảng cần có những giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả lãnh đạo, xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên vững mạnh, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước trong bối cảnh tình hình mới.

– Tài chính của Đảng (Chương XI).

Đòi hỏi các cấp ủy và tổ chức Đảng cần khẩn trương thực hiện các giải pháp cụ thể để cải tiến công tác tài chính, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính, bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm trong sử dụng nguồn lực của Đảng.

3. Kết luận

Công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng trong bối cảnh tình hình mới đang đối diện với nhiều thách thức phức tạp và đa chiều, đòi hỏi sự đổi mới, thích ứng mạnh mẽ từ cả phương diện lý luận và thực tiễn. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng, tổ chức và quản lý hoạt động của Đảng, nhưng trước những biến đổi không ngừng của xã hội và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng, Điều lệ cần được bổ sung, điều chỉnh kịp thời để đáp ứng nhiệm vụ chính trị mới. Các vấn đề thực hiện chưa hiệu quả, còn hạn chế trong công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ như việc bảo đảm sự cân bằng trong cơ cấu tổ chức, xử lý vi phạm kỷ luật, cũng như cải thiện công tác kiểm tra, giám sát đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết.

Việc tiếp tục nghiên cứu và tổ chức thực hiện hiệu quả, tích cực Điều lệ Đảng trong thời gian tới là một một nhiệm vụ quan trọng, cần thiết, không chỉ nhằm củng cố sức mạnh “nội tại” của Đảng mà còn bảo đảm sự lãnh đạo hiệu quả và phát triển bền vững của hệ thống chính trị trong bối cảnh toàn cầu hóa và những thách thức mới. Ngoài ra, việc tiếp tục nghiên cứu, tổng kết đánh giá, đúc rút kinh nghiệm trong quá trình thi hành Điều lệ Đảng sẽ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc phát triển đất nước trong giai đoạn mới (*).

Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5, 6, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 219 – 221, 222 – 224, 266 – 267, 273, 300 – 301, 197, 266-267.
7. Sau Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 29-QĐ/TW ngày 25/7/2016 về thi hành Điều lệ Đảng; Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26/7/2016 thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; Ban Bí thư đã ban hành Hướng dẫn số 01-HD/TW ngày 20/9/2016 về một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng. Đến Đại hội XIII Đảng đã đánh giá, khẳng định những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng và tổng kết công tác thi hành Điều lệ Đảng, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28/7/2021 về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.
(*) Bài viết là sản phẩm nghiên cứu Đề tài KHBTC (2024)-02 của Vụ Nghiên cứu khoa học tổ chức, cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương.