Đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, xuyên tạc về quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam 

ThS. Nguyễn Bích Hạnh
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam đã được Hiến pháp và pháp luật bảo đảm; đồng thời, khẳng định, phụ nữ luôn giữ vị trí quan trọng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đ bình đẳng giới để xuyên tạc, gây hoài nghi, chia rẽ và giảm niềm tin của Nhân dân vào các chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhận diện, đấu tranh phản bác trước các luận điệu, thủ đoạn sai trái là rất quan trọng để từ đó khẳng định những giá trị thực về quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam; đồng thời, kiên quyết phản bác các quan điểm xuyên tạc, sai sự thật.

Từ khóa: Bình đẳng giới; quyền của phụ nữ; phụ nữ Việt Nam; đấu tranh; phản bác quan điểm sai trái. 

1. Nhận diện luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động

Gần đây, lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của cán bộ, đảng viên khi thi hành công vụ, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, bất mãn đã dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, thông qua diễn đàn, mạng xã hội để đăng, phát tán nhiều bài viết, hình ảnh, video cố tình xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới; đồng thời vu cáo “Việt Nam không có bình đẳng giới, quyền của người phụ nữ bị bỏ rơi”Cụ thể: 

(1) Các thế lực thù địch đưa ra những con số nhưng thiếu sự so sánh, đối chiếu khoa học, theo quy định về: tỷ lệ bầu cử nữ qua các kỳ đại hội của Đảng, về thu nhập giữa nam và nữ, thời gian lao động, bạo lực gia đình, tỷ lệ trẻ em nữ đến trường… để rêu rao rằng phụ nữ Việt Nam hiện nay đang bất bình đẳng trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, y tế…,  không tạo điều kiện cho người phụ nữ. 

(2) Các thế lực thù địch ra sức cổ súy cho tư tưởng “phụ nữ chỉ nên làm nội trợ”, “làm bàn đạp hỗ trợ cho đàn ông” nhằm xoáy sâu tạo tâm lý mặc cảm, tự ti, làm cho phụ nữ thiếu tin tưởng về vị trí, vai trò trong gia đình và trong cộng đồng xã hội. Thậm chí, còn so sánh bịa đặt về đời sống phụ nữ giữa các dân tộc, vùng, miền để gieo rắc tư tưởng bị phân biệt, kỳ thị, làm giảm sự chung tay, cống hiến đóng góp của phụ nữ trên các lĩnh vực xã hội. Ngoài ra, còn hình thành các tổ chức, hội, nhóm đối lập do các đối tượng chống đối là phụ nữ cầm đầu hoặc có sự tham gia của phụ nữ, như: “hội phụ nữ nhân quyền”, “hội bầu bí tương thân”, “hội dân oan”, “dự án xã hội dân sự”… lấy danh nghĩa giúp đưa tiếng nói, ý chí, nguyện vọng của Nhân dân để kêu gọi bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ. 

(3) Các thế lực thù địch núp bóng người dân để viết đơn kiến nghị, thậm chí khởi kiện Nhà nước vi phạm các điều ước quốc tế về quyền bình đẳng… khi bị phát hiện, lập tức lại vu cáo Nhà nước “độc đoán”, đàn áp tự do, phân biệt đối xử”. Những luận điệu, hành vi của chúng là đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc; gây ra tâm lý hoài nghi, suy giảm lòng tin của Nhân dân về các đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với vấn đề bình đẳng giới, công tác phụ nữ.

2. Đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, vu khống: “Việt Nam không có bình đẳng giới, quyền của người phụ nữ bị bỏ rơi”

Những năm qua, Việt Nam đã rất nỗ lực bảo vệ và thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó quyền của người phụ nữ luôn được quan tâm, bảo đảm, thể hiện trên ba góc độ lớn:

Thứ nhất, quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bình đẳng giới và trao quyền năng cho phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn là một trong những mục tiêu chiến lược, lâu dài, quan trọng của Đảng, Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã chỉ rõ: nam – nữ bình quyền là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Đảng ta đã chủ trương: “Nam nữ bình quyền”1.

Trong Tuyên ngôn Độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định về quyền bình đẳng: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”2. Người nhận thấy rõ vai trò to lớn của phụ nữ: “Non sông gấm vóc do phụ nữ ta trẻ cũng như già ra sức dựng xây mà thêm phần tốt đẹp, rực rỡ3. Trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho dân cho nước, Người căn dặn toàn Đảng, toàn dân: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”4

Thứ hai, về hệ thống pháp lý. Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp luật và chính sách khá toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy bình đẳng giới. Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013 đều đưa quyền con người, quyền bình đẳng lên hàng đầu: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”5.Trong đó, “công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội đẳng giới”6.

Với quyền của người phụ nữ, Hiến pháp quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”7. Nữ giới không những được bình đẳng với nam giới mà còn được ưu tiên: “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội”8.

Đặc biệt, ngày 29/11/2006, Quốc hội (khóa XI), kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Bình đẳng giới(Luật số 73/2006/QH11) tạo ra hành lang pháp lý quan trọng để thực hiện mục tiêu bình đẳng nam nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Quyền bình đẳng còn được các luật cụ thể hóa trên các lĩnh vực: hình sự, dân sự, tố tụng, bầu cử, hành chính…, điển hình, như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Bộ luật Lao động… Hệ thống pháp luật Việt Nam rất quan tâm, bảo vệ đối tượng yếu thế, như: trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật; đồng thời, phù hợp với pháp luật quốc tế, với các công ước chống phân biệt chủng tộc, bảo vệ phụ nữ… Cùng với đó, các chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 (Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ); giai đoạn 2021 – 2030 (Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 3/3/2021 của Chính phủ) được ban hành nhằm định hướng, cụ thể hóa mục tiêu và hành động thực hiện bình đẳng giới, tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới theo yêu cầu từng giai đoạn phát triển.

Để phụ nữ vươn lên, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng đất nước, nhiều nghị quyết, nghị định, chỉ thị ưu tiên, khuyến khích sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy cơ quan công quyền, trong lao động, sản xuất được ban hành, như: Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 của Chính phủ quy định về những chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho các đối tượng là lao động nữ; Nghị quyết số 11/2007/NQ-TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025”; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Quyết định số 101/QĐ-TTg ngày 25/01/2023 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về phụ nữ, hòa bình và an ninh giai đoạn 2024 – 2030; Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đặt ra các yêu cầu, nhiệm vụ chăm lo xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới… Nhiều vấn đề bình đẳng giới còn được lồng ghép trong quá trình xây dựng chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội, đã tạo tiền đề tiến đến mục tiêu bình đẳng giới của Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn. Đến nay, tất cả các bộ, ngành, địa phương đều xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Hệ thống văn bản pháp luật, chính sách tiếp tục được xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới, bảo vệ, ưu tiên phụ nữ. Các chương trình, dự án về bình đẳng giới được ban hành và thực hiện, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả.

Nhìn chung, Việt Nam đã xây dựng một nền móng pháp lý hoàn thiện để bảo vệ công dân, giảm thiểu bất bình đẳng giới, phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của phụ nữ; tích cực xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.

Thứ ba, thực tiễn tổ chức thực hiện. Bình đẳng giới và quyền của người phụ nữ đã được Việt Nam nỗ lực tuyên truyền, giáo dục rộng rãi qua nhiều phương tiện thông tin đại chúng: mạng xã hội, truyền hình, báo chí, trang web và blog, diễn đàn và cộng đồng trực tuyến, video trực tuyến và phát trực tiếp; qua các lễ phát động, diễu hành, mít tinh; các cuộc tuyên truyền, tọa đàm, đối thoại, giao lưu, hội thi (sáng tác tranh kí họa về bình đẳng giới), tập huấn, tháng hành động với các chủ đề thiết thực,như bảo đảm an sinh xã hội, tăng quyền năng và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái nhằm thực hiện bình đẳng giới và xóa bỏ bạo lực với phụ nữ và trẻ em gái… để mỗi công dân có thể hiểu rõ, hiểu đúng về quyền và trách nhiệm của bản thân; thu hút sự quan tâm, hưởng ứng của toàn xã hội, tạo hiệu ứng tích cực, nâng cao nhận thức, hành động đúng, từ đó góp phần làm cho quyền con người của bản thân từng người trong xã hội được bảo đảm.

Sự tham gia, đóng góp của người phụ nữ được thể hiện rõ trên các lĩnh vực:

(1) Lĩnh vực chính trị: Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới, thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á về tỷ lệ nữ tham gia cơ quan dân cử; đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN và thứ 47/187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng về bình đẳng giới trong tham chính và trong công tác quản lý. Báo cáo Phát triển con người của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Việt Nam nằm trong nhóm 1/3 các nước đứng đầu về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội và tỷ lệ phụ nữ tham gia lao động với tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 30%9.

                                                              (Nguồn: Cổng thông tin điện tử Quốc hội)

Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021, 2021 – 2026 đều tăng so với nhiệm kỳ trước. Mục tiêu đề ra: đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ10. Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo, quản lý đã một phần chứng minh ở nước ta khoảng cách giới đang dần được thu hẹp.

(2) Lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm: theo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam năm 2021, cứ 4 doanh nghiệp tư nhân sẽ có 1 doanh nghiệp do phụ nữ lãnh đạo, nữ giới đóng góp tới 40% của cải cho nền kinh tế Việt Nam. Báo cáo chỉ số nữ doanh nhân Mastercard (MIWE) năm 2021 cho thấy, số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ tại Việt Nam ở mức 26,5%, xếp thứ 9 trên 58 nền kinh tế được nghiên cứu về số lượng phụ nữ trong vai trò lãnh đạo11. Những nữ doanh nhân thành công trên thương trường và tạo lập được những thương hiệu, sản phẩm nổi tiếng của Việt Nam không chỉ ra khu vực mà trên toàn thế giới. Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu năm 2023 do Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố, Việt Nam được ghi nhận là bình đẳng hoàn toàn về tỷ lệ phụ nữ làm công nhân kỹ thuật và phụ nữ kiếm được 81,4% thu nhập kiếm được ước tính của nam giới. Những con số này cho thấy sự phấn đấu, trưởng thành, tiến bộ của phụ nữ, mặt khác, khẳng định bình đẳng giới trong lĩnh vực này.

(3) Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế: thực tiễn minh chứng, phụ nữ Việt Nam rất tích cực tham gia bài trừ các tập tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, xây dựng văn hóa con người Việt Nam, văn hóa gia đình, nếp sống khu dân cư… Các nữ quản lý, nhà giáo dục trình độ cao, như: bà Tô Thụy Diễm Quyên (nhà sáng lập, giám đốc điều hành InnEdu), Văn Đinh Hồng Vũ (đồng sáng lập CEO ELSA)… đang cống hiến cho “quốc sách hàng đầu”, xây dựng một nền giáo dục tiến tiến, hiện đại.

(4) Lĩnh vực đối ngoại: Việt Nam có nữ sĩ quan đầu tiên tham gia Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc tại Nam Sudan vào năm 2018. Đội ngũ cán bộ nữ ngoại giao Việt Nam đã có những đóng góp hoàn thành tốt nhiệm vụ đối ngoại vì hòa bình, ổn định, phát triển và hội nhập quốc tế. Đồng thời, góp sức và trí tuệ trong nỗ lực toàn cầu, thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao quyền năng của phụ nữ, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao cũng như quan hệ đối tác chiến lược giữa các nước.

Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều công ước quốc tế và các chương trình nghị sự lớn về quyền của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới, như: Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký kết tham gia công ước CEDAW – Công ước của Liên hiệp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ – ngày 29/7/1980, được phê chuẩn vào ngày 27/11/1981. Đến nay, luôn tôn trọng, bảo đảm, thúc đẩy, thực hiện nghiêm những điều ước của Công ước này. 

Ngày 12/6/2019, Việt Nam đã ký Bản ghi nhớ (gọi là MOU) với Australia về nâng cao vai trò và đóng góp của phụ nữ trong lĩnh vực đối ngoại phục vụ hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện trong kỷ nguyên số. Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn thành sớm nhất mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới, nâng cao vị thế cho phụ nữ và hiện đang nỗ lực thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững 2030, trong đó có các mục tiêu về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái. Báo cáo Khoảng cách giới toàn cầu năm 2023 đã công bố, chỉ số xếp hạng về bình đẳng giới của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 72/146 tăng hơn so với năm trước12.

(5) Trong gia đình: người vợ, người chồng được bình đẳng với nhautrong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình. Có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển… Đây là minh chứng rõ nét, khẳng định nước ta luôn bảo đảm bình đẳng giới và quan tâm đến người phụ nữ. Đây cũng là cơ sở đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề này.

3. Một số giải pháp 

Thứ nhất, cần nhận thức rõ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch là nhiệm vụ thường xuyên, là trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên. Phải thường xuyên rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, vững vàng, kiên định, không dao động trước mọi tình huống; phải quyết tâm phấn đấu, vượt khó, chịu khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ, vì lợi ích của Đảng và của Nhân dân thực hiện theo Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thứ hai, nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc về bình đẳng giới, về quyền của phụ nữ. Để làm tốt nhiệm vụ này, mỗi cán bộ, đảng viên phải đổi mới tư duy lý luận, quyết tâm cao, kiên trì, bền bỉ, bảo vệ cái đúng, phê phán, bác bỏ cái sai, cái xấu mà kẻ thù gieo rắc tấn công vào niềm tin của chúng ta: “…Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình, phải tự cường, phải đấu tranh”13. Cần tỉnh táo chọn lọc và kiểm chứng thông tin, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi phát ngôn, tán đồng, chia sẻ nhận định, đánh giá về vấn đề, sự kiện, hiện tượng này; không lưu trữ, cung cấp, đăng tải, tán đồng, chia sẻ, phát tán những thông tin xấu, độc, giả mạo, xuyên tạc, vu khống,… mà cần phải tăng cường đăng tải những thông tin chính thống, lan tỏa những thông điệp tốt đẹp mỗi ngày; đồng thời phản biện lại những thông tin sai trái, phiến diện của các thế lực thù địch trên không gian mạng.

Bên cạnh đó, phải thường xuyên trang bị kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng để tự xây dựng ý thức “đề kháng”, nêu cao tinh thần cảnh giác, nhận diện đúng, đủ các thông tin xấu – độc, thù địch. Báo cáo ngay với cơ quan chức năng biết hành vi vi phạm để kịp thời ngăn chặn và xử lý theo quy định; tích cực thông tin và tăng cường đối thoại với Nhân dân; chủ động, linh hoạt tham gia các vấn đề cụ thể của xã hội. Thường xuyên duy trì, thực hiện có hiệu quả việc phối hợp với các cơ quan chức năng, tạo thế trận rộng khắp, chặt chẽ trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái, bảo vệ chủ trương bình đẳng giới mọi lúc, mọi nơi.

Thứ ba, chung tay thúc đẩy, thực hiện tốt các công ước, điều ước của Quốc tế; những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng, bảo vệ bình đẳng giới và người phụ nữ. Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp, kể cả biện pháp pháp luật, trên tất cả các lĩnh vực… nhằm bảo đảm cho phụ nữ được thực hiện cũng như thụ hưởng các quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới14. Nâng cao trách nhiệm cá nhân trong tổ chức thực hiện hiệu quả các công ước, điều ước quốc tế, như: Công ước CEDAW, chiến dịch “Rung chuông vì bình đẳng thế giới”… Đồng thời, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; rà soát, góp ý, bổ sung kịp thời, phù hợp với yêu cầu thực tiễn về xây dựng, bảo vệ bình đẳng giới và phụ nữ, không tạo khoảng trống để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Thứ tư, làm tốt vai trò là một tuyên truyền viên tích cực cho vấn đề bình đẳng. Mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực tuyên truyền, giải thích cho quần chúng nhân dân ở địa phương, công chức, viên chức trong đơn vị, nhất là thế hệ trẻ hiểu rõ: bình đẳng giới là một trong những vấn đề mang tính toàn cầu, mục tiêu phát triển quan trọng của các quốc gia trên thế giới nhằm hướng tới một xã hội tiến bộ, dân chủ và vănminh. Việc tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để toàn dân nắm vững, chủ động tìm ra những giải pháp, cách thức đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái cần đúng, trúng và hiệu quả. Trong đó, cần cung cấp thông tin chính thống, luận cứ, chứng cứ thực tiễn để tất cả người dân hiểu rõ bản chất sai trái, không tin theo các thông tin xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch. Tuyên truyền, hướng dẫn để gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp tham gia mạng xã hội một cách an toàn, lành mạnh và có trách nhiệm. Lan tỏa, “phủ xanh”những thông tin tốt đẹp, giá trị tích cực, chia sẻ nhiều hơn nữa những tấm gương điển hình, tiên tiến; những mô hình tốt, cách làm hay trong quá trình thực hiện bình đẳng giới và bảo vệ người phụ nữ.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 1.

2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 1.

3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 340.

4. Hồ Chí Minh (1968). Di chúc sửa đổi.

5, 7. Quốc hội (1946). Điều thứ 1, Điều thứ 9 Hiến pháp năm 1946.

6, 8. Quốc hội (2013). Điều 26 Hiến pháp năm 2013.

9, 10, 12. Việt Nam đạt nhiều thành tựu về bình đẳng giới. https://dantri.com.vn/lao-dong-viec-lam/viet-nam-dat-nhieu-thanh-tuu-ve-binh-dang-gioi-20241225140848811.htm

11. Báo cáo MIWE 2021: Doanh nhân nữ Việt Nam kiên cường và mạnh mẽ.https://vietnamnet.vn/bao-cao-miwe-2021-doanh-nhan-nu-viet-nam-kien-cuong-va-manh-me-2047576.html

13. Hồ Chí Minh (1959). Bài nói tại Hội nghị cán bộ thảo luận Luật Hôn nhân và gia đình, ngày 10/10/1959.

14. Đại hội đồng Liên hiệp quốc (1979). Điều 3 Công ước CEDAW – Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ.