Giải pháp nâng cao năng lực quản lý của thành viên ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp mới

ThS. Đoàn Thanh Tùng
Trường Đại học Tài chính – Ngân hàng Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh tái cơ cấu nông nghiệp gắn với yêu cầu phát triển bền vững, mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới đang giữ vai trò then chốt trong tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị và kết nối thị trường. Tuy nhiên, nhiều hợp tác xã nông nghiệp hiện tại hoạt động kém hiệu quả, chủ yếu do năng lực quản lý hạn chế của ban quản trị. Bài viết tập trung phân tích bối cảnh và những vấn đề đặt ra đối với các hợp tác xã nông nghiệp mới, trong đó một trong các vấn đề quan trọng đặt ra liên quan đến năng lực quản lý của thành viên ban quản trị. Từ đó, đề xuất các nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý của ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp hiện nay.

Từ khóa: Phát triển bền vững, hợp tác xã nông nghiệp mới, chuỗi giá trị, năng lực quản lý, ban quản trị.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh phát triển, hội nhập hiện nay, nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp bách phải đổi mới mạnh mẽ để thích ứng với xu thế phát triển xanh, bền vững và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Các mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp truyền thống đang bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt trong khâu liên kết sản xuất, tiêu thụ, sản xuất lớn, ứng dụng khoa học – công nghệ và nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông sản. Trong tiến trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới được xác định là một trong những nhân tố then chốt giúp tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy mối liên kết giữa người nông dân với doanh nghiệp, thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền nông nghiệp nước ta.

Với truyền thống sản xuất nông nghiệp, gắn bó với nông nghiệp, nông dân lâu đời, các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động trên địa bàn nông thôn. Thực tế cho thấy, phần lớn cán bộ quản lý hợp tác xã xuất thân từ nông dân hoặc cán bộ địa phương nghỉ hưu, ít được đào tạo bài bản, thiếu kỹ năng về quản trị, tổ chức sản xuất, tài chính, thị trường và công nghệ. Một số người làm việc mang tính chất kiêm nhiệm, chưa thực sự tâm huyết với công việc, thiếu động lực đổi mới và tinh thần dấn thân. Ngoài ra, trong điều kiện chuyển đổi mô hình hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2023, yêu cầu về năng lực điều hành, tư duy thị trường, khả năng xây dựng liên kết và tiếp cận công nghệ càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Do đó, việc nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực quản lý cho thành viên ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp không chỉ là yêu cầu thực tiễn cấp bách nhằm tháo gỡ “nút thắt” về con người trong phát triển hợp tác xã nông nghiệp mà còn mang ý nghĩa chiến lược trong quá trình tái cơ cấu lại tổ chức sản xuất nông nghiệp.

2. Bối cảnh và những vấn đề đặt ra đối với các hợp tác xã nông nghiệp

2.1. Bối cảnh

Trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội hiện nay, nông nghiệp vẫn giữ vai trò nền tảng trong cơ cấu kinh tế Việt Nam, đặc biệt tại các tỉnh thuần nông. Tuy nhiên, bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa đang đặt ra yêu cầu tái cấu trúc ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững và hiệu quả. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới được xác định là một mắt xích quan trọng trong việc tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị và kết nối thị trường.

Chủ trương của Đảng và Nhà nước, thể hiện qua Luật Hợp tác xã năm 2012 và các chương trình mục tiêu quốc gia như OCOP, tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nông thôn mới đều đặt hợp tác xã nông nghiệp vào vị trí trung tâm trong việc tổ chức sản xuất, nâng cao chất lượng nông sản và phát triển kinh tế nông thôn. Trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do (FTA) ngày càng mở rộng, nông nghiệp buộc phải chuyển từ mô hình sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa lớn, theo tiêu chuẩn kỹ thuật và truy xuất nguồn gốc rõ ràng.

Sự phát triển của công nghệ số cũng đang định hình lại chuỗi giá trị nông nghiệp, đặt ra yêu cầu mới về năng lực tổ chức, điều hành và tiếp cận thị trường. Trong đó, ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp giữ vai trò then chốt trong việc hoạch định chiến lược, liên kết các tác nhân kinh tế, quản lý tài chính, áp dụng khoa học – kỹ thuật và đàm phán tiêu thụ sản phẩm. Hợp tác xã nông nghiệp hiện đại không chỉ là đơn vị cung ứng dịch vụ đầu vào mà còn là “bộ điều phối” toàn chuỗi giá trị nông nghiệp.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, cạnh tranh gay gắt từ thị trường quốc tế, cũng như xu hướng chuyển dịch lao động nông thôn, việc nâng cao năng lực cho Ban Quản trị hợp tác xã nông nghiệp là yêu cầu cấp thiết để xây dựng một nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững và hội nhập. Đây cũng là vấn đề mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với truyền thống nông nghiệp nhưng đang đối mặt với thách thức mới trong phát triển mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới.

2.2. Những vấn đề đặt ra

Thứ nhất, năng lực quản lý của ban quản trị còn yếu và thiếu chuyên nghiệp. Nhiều hợp tác xã nông nghiệp do cán bộ kiêm nhiệm hoặc người nghỉ hưu đảm trách, chưa qua đào tạo bài bản về quản trị, lập kế hoạch, điều hành sản xuất hay tiếp cận công nghệ. Hạn chế này khiến hợp tác xã vận hành theo thói quen, phụ thuộc vào hỗ trợ nhà nước, thiếu tư duy thị trường và đổi mới mô hình.

Thứ hai, hạn chế trong kết nối chuỗi giá trị và mở rộng thị trường. Phần lớn hợp tác xã mới dừng lại ở cung ứng vật tư đầu vào, ít tham gia các khâu sau thu hoạch như bảo quản, chế biến, tiêu thụ. Sự thiếu liên kết với doanh nghiệp và vùng nguyên liệu khiến sản phẩm hợp tác xã không có thương hiệu, phụ thuộc vào thương lái và thiếu hợp đồng bao tiêu, làm gia tăng rủi ro cho nông dân.

Thứ ba, chính sách hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả. Mặc dù có nhiều chương trình hỗ trợ từ Trung ương và địa phương, việc triển khai còn chậm, manh mún và khó tiếp cận. Các cán bộ hợp tác xã thiếu năng lực lập hồ sơ, tiếp cận chính sách, trong khi tín dụng ưu đãi vẫn gặp rào cản lớn về điều kiện vay và tài sản thế chấp. Chính sách thiếu cơ chế gắn kết hợp tác xã với doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học.

Thứ tư, thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ, có trình độ. Đội ngũ cán bộ hợp tác xã nông nghiệp đang bị già hóa; lực lượng kế cận trẻ, năng động và có năng lực quản trị hiện đại rất ít, do môi trường làm việc kém hấp dẫn và thu nhập thấp. Tình trạng này làm suy yếu tính kế thừa và khả năng thích ứng với các yêu cầu mới như chuyển đổi số, nông nghiệp thông minh hay kinh tế tuần hoàn.

Thứ năm, mô hình tổ chức và phương thức hoạt động chậm đổi mới. Dù đã chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2023, nhiều hợp tác xã vẫn hoạt động theo cơ chế cũ, chưa xác lập rõ cơ chế thị trường, chưa có chiến lược kinh doanh, quy chế hoạt động minh bạch hay hệ thống kiểm soát nội bộ. Thiếu cơ chế phân phối lợi ích hợp lý cũng khiến thành viên không mặn mà tham gia, làm giảm sức sống của hợp tác xã.

Thứ sáu, đối mặt với thách thức từ biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế. Sản xuất nông nghiệp đang bị ảnh hưởng bởi thiên tai, sâu bệnh, thời tiết bất thường và cạnh tranh từ nông sản nhập khẩu giá rẻ. Trong khi đó, các hiệp định FTA đặt ra yêu cầu cao về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn kỹ thuật, buộc hợp tác xã phải chuyển đổi để đáp ứng yêu cầu thị trường.

Những tồn tại nêu trên cho thấy, năng lực của ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp chính là nút thắt cần tháo gỡ để hợp tác xã nông nghiệp chuyển sang mô hình hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả, thích ứng với bối cảnh hội nhập và phát triển bền vững.

3. Một số giải pháp nâng cao năng lực quản lý của thành viên ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp

Một là, nâng cao tố chất quản lý thành viên ban quản trị.

Tố chất quản lý là yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc đến năng lực quản lý của thành viên ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp. Những phẩm chất như tư duy lãnh đạo, phản ứng linh hoạt trước thay đổi, tinh thần trách nhiệm và bản lĩnh xử lý công việc chính là nền tảng quan trọng để hình thành một Ban quản trị đủ năng lực dẫn dắt hợp tác xã nông nghiệp phát triển hiệu quả. Thực tiễn tại các địa phương cho thấy, nhiều hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả không hẳn do thiếu vốn hay thị trường, mà chủ yếu vì đội ngũ quản lý thiếu chủ động, yếu khả năng ra quyết định và thiếu tầm nhìn chiến lược.

Tố chất quản lý không hoàn toàn là đặc điểm bẩm sinh, mà có thể hình thành và phát triển thông qua rèn luyện và thực tiễn. Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng cạnh tranh và gắn với các yêu cầu sản xuất sạch, liên kết chuỗi, truy xuất nguồn gốc và hội nhập toàn cầu, Ban quản trị hợp tác xã không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm hay mối quan hệ truyền thống. Họ cần tư duy đổi mới, bản lĩnh ra quyết định và năng lực quản trị toàn diện về chiến lược, tài chính và nhân sự.

Để phát triển tố chất quản lý, cần cải tiến quy trình bầu chọn ban quản trị theo hướng minh bạch, chuyên nghiệp, có tiêu chí cụ thể như năng lực tổ chức, khả năng phân tích, thuyết phục, hiểu biết thị trường và cam kết gắn bó với hợp tác xã. Việc đánh giá năng lực định kỳ hoặc thi tuyển mở cũng là giải pháp phù hợp nhằm phát hiện và thu hút nhân sự có tiềm năng thực sự.

Song song, cần thiết kế các chương trình đào tạo chuyên sâu về năng lực lãnh đạo, không chỉ dừng lại ở kỹ thuật sản xuất hay kế toán, mà tập trung vào kỹ năng quản trị rủi ro, ra quyết định trong bối cảnh bất định, lãnh đạo đổi mới sáng tạo và xây dựng chiến lược dài hạn. Các chương trình này nên áp dụng phương pháp đào tạo thực chiến, học tập tình huống, kết hợp chia sẻ từ doanh nhân và chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực nông nghiệp.

Ngoài ra, cần có cơ chế đãi ngộ phù hợp để khuyến khích cán bộ có năng lực, đặc biệt trong bối cảnh nhiều người đang kiêm nhiệm và thu nhập chưa tương xứng với trách nhiệm. Chính sách khen thưởng, tôn vinh hợp tác xã tiêu biểu, xét tặng danh hiệu cho cán bộ quản lý có đóng góp nổi bật sẽ góp phần tạo động lực và ghi nhận cống hiến.

Đồng thời, cần phát triển mạng lưới cố vấn, hỗ trợ kỹ thuật và cộng đồng học tập liên kết giữa các hợp tác xã, nơi ban quản trị có thể chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi mô hình thành công và tiếp cận phương pháp quản trị hiện đại. Đây là môi trường quan trọng để những cá nhân có tố chất quản lý tiếp tục được bồi dưỡng và phát triển lâu dài, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác xã nông nghiệp trong bối cảnh mới.

Hai là, rèn luyện thái độ làm việc chuyên nghiệp của ban quản trị hợp tác xã.

Trong bối cảnh phát triển nông nghiệp hiện đại, thái độ làm việc của đội ngũ ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp ngày càng được xem là yếu tố then chốt, tác động trực tiếp đến hiệu quả điều hành và sức sống của mô hình hợp tác xã. Thực tế cho thấy, nhiều hợp tác xã vẫn vận hành theo lối cũ, thiếu chủ động trong tiếp cận thị trường, đổi mới phương thức sản xuất hay xây dựng liên kết chuỗi. Thái độ làm việc hình thức, thiếu trách nhiệm, và tâm lý trông chờ vào chỉ đạo từ chính quyền là khá phổ biến. Không ít Ban quản trị vẫn xem hợp tác xã là tổ chức hỗ trợ hành chính hơn là một đơn vị kinh tế, dẫn đến trì trệ trong ra quyết định, giảm lòng tin của xã viên và làm suy yếu tinh thần hợp tác.

Trong bối cảnh đó, rèn luyện thái độ làm việc chuyên nghiệp cần được đặt đúng tầm trong chiến lược nâng cao năng lực quản lý hợp tác xã. Thái độ tích cực, bao gồm: tinh thần trách nhiệm, chủ động, hợp tác, cầu tiến và tận tâm với công việc… tuy khó đo lường định lượng nhưng lại có tác động sâu rộng đến hiệu quả vận hành tổ chức.

Trước hết, cần xây dựng chuẩn mực hành vi công vụ cho ban quản trị thông qua bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy định rõ trách nhiệm tiếp nhận phản hồi, minh bạch tài chính, báo cáo định kỳ và cam kết phục vụ xã viên. Tiếp theo, cần tích hợp nội dung đạo đức công vụ và văn hóa lãnh đạo trong các chương trình đào tạo, tập huấn cho ban quản trị hợp tác xã. Bên cạnh kiến thức chuyên môn, cần chú trọng các chuyên đề như “Lãnh đạo phục vụ”, “Trách nhiệm với cộng đồng”, hay “Quản trị minh bạch trong tổ chức kinh tế tập thể”. Các trường chính trị, trung tâm bồi dưỡng cán bộ hoặc liên kết với Liên minh hợp tác xã Việt Nam có thể đóng vai trò tổ chức và điều phối chương trình này.

Ngoài ra, văn hóa tổ chức minh bạch, dân chủ và khuyến khích đóng góp ý kiến sẽ góp phần hình thành thái độ làm việc tích cực. Cơ chế động viên khen thưởng, kỷ luật rõ ràng; các hình thức tôn vinh như “Ban quản trị tận tâm”, “Thành viên gương mẫu”, hay hội nghị biểu dương lãnh đạo hợp tác xã tiêu biểu có thể giúp lan tỏa động lực cống hiến.

Đặc biệt, cần đưa tiêu chí đánh giá thái độ làm việc vào hệ thống bình xét thi đua và đánh giá năng lực định kỳ. Không chỉ xét đến kết quả tài chính, cần tính đến mức độ chủ động, tinh thần hợp tác, phản hồi từ xã viên và khả năng cải tiến trong quản lý. Phương pháp đánh giá 360 độ: lấy ý kiến từ xã viên, cán bộ địa phương và các thành viên đồng cấp sẽ giúp bảo đảm tính khách quan và toàn diện.

Từ góc độ quản lý nhà nước, chính quyền các tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước cần phải sớm ban hành hướng dẫn khung về đánh giá thái độ ban quản trị hợp tác xã, lồng ghép với phân loại hợp tác xã và chính sách hỗ trợ tương ứng. Việc tổ chức các diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm quản lý giữa các hợp tác xã cũng cần được thúc đẩy nhằm nâng cao nhận thức và khơi dậy tinh thần trách nhiệm trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo.

Ba là, về nâng cao kỹ năng quản lý.

Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam đang tái cơ cấu theo hướng hiện đại, hiệu quả và hội nhập sâu với thị trường, vai trò của ban quản trị hợp tác xã ngày càng trở nên quan trọng. Họ không chỉ cần “có tâm” mà còn phải có kỹ năng quản lý bài bản, thích ứng với yêu cầu quản trị ngày càng phức tạp. Thực tế cho thấy kỹ năng quản lý là yếu tố chuyển hóa chiến lược thành hành động, giúp điều phối nguồn lực và kiểm soát hiệu quả tiến trình sản xuất trong hợp tác xã.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, phần lớn hợp tác xã nông nghiệp vẫn vận hành theo lối cũ, thiếu cơ chế phân quyền, giám sát và đánh giá kết quả. Quy trình quản lý thường phụ thuộc vào kinh nghiệm của Chủ nhiệm hoặc một số thành viên chủ chốt, dẫn đến lúng túng trong các vấn đề như tài chính, lao động, hợp đồng và xây dựng kế hoạch sản xuất – kinh doanh, nhất là khi hợp tác xã tham gia các chương trình như OCOP, VietGAP hay liên kết chuỗi.

Do đó, việc phát triển kỹ năng quản lý cần được nhìn nhận như một chiến lược dài hạn, thay vì chỉ là các hoạt động tập huấn ngắn hạn. Các kỹ năng cần thiết, bao gồm:

(1) Kỹ năng hoạch định chiến lược và lập kế hoạch sản xuất – kinh doanh: Nhiều hợp tác xã vẫn lập kế hoạch theo vụ mùa, thiếu gắn kết với dự báo thị trường và tiêu thụ sản phẩm. Do đó, cần tổ chức các khóa đào tạo về xây dựng kế hoạch trung – dài hạn, ngân sách, phân tích rủi ro và điều phối sản xuất theo đơn hàng.

(2) Kỹ năng quản lý tài chính – kế toán: Việc ghi chép tài chính tại nhiều HTX còn sơ sài, không minh bạch, làm giảm niềm tin của xã viên. Cần tập huấn kỹ năng lập ngân sách, đọc hiểu báo cáo tài chính, sử dụng phần mềm quản lý tài chính.

(3) Kỹ năng giao tiếp, đàm phán và hợp tác: Ban quản trị cần có khả năng thuyết trình, thương lượng hợp đồng, xây dựng quan hệ dài hạn với doanh nghiệp tiêu thụ, nhà cung cấp đầu vào… Đây là năng lực thiết yếu để bảo vệ lợi ích xã viên và nâng cao vị thế hợp tác xã trên thị trường.

(4) Kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin: Trong xu thế chuyển đổi số, Ban Quản trị cần làm chủ phần mềm quản lý thành viên, tài chính, sản xuất, truy xuất nguồn gốc… Tuy nhiên, hiện nay nhiều cán bộ hợp tác xã vẫn e ngại công nghệ. Cần tổ chức các khóa tin học ứng dụng cơ bản, đi kèm hỗ trợ kỹ thuật từ Liên minh hợp tác xã các tỉnh.

(5) Kỹ năng lãnh đạo nhóm và xử lý mâu thuẫn nội bộ: Trong môi trường hợp tác xã, nơi xã viên vừa góp vốn vừa sản xuất, mâu thuẫn lợi ích thường xuyên xảy ra. Ban quản trị cần có kỹ năng điều hòa quan hệ, ra quyết định công bằng, xây dựng văn hóa tổ chức gắn bó, minh bạch và dân chủ.

Phát triển kỹ năng quản lý cho Ban quản trị không chỉ là “đào tạo cán bộ”, mà là đầu tư vào năng lực điều hành cốt lõi của tổ chức hợp tác xã. Với yêu cầu ngày càng cao về truy xuất nguồn gốc, liên kết chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ số, một Ban quản trị có đầy đủ kỹ năng sẽ trở thành “bộ não trung tâm”, giúp hợp tác xã thích ứng linh hoạt, quản trị hiệu quả và phát triển bền vững.

Bốn là, nâng cao trình độ kiến thức cho thành viên ban quản trị.

Kiến thức chuyên môn và kiến thức quản lý là cơ sở để Ban quản trị đưa ra quyết định chiến lược đúng đắn, kiểm soát hoạt động sản xuất – kinh doanh và thích ứng với bối cảnh nông nghiệp đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng công nghệ cao, chuỗi giá trị và kinh tế số.

Bổ sung và cập nhật kiến thức là giải pháp nền tảng trong chiến lược nâng cao năng lực quản lý hợp tác xã nông nghiệp. Trước hết, cần xây dựng các chương trình đào tạo bài bản, thực tiễn và phù hợp với trình độ của cán bộ hợp tác xã. Nội dung đào tạo nên gắn với đặc thù sản xuất từng vùng, từng nhóm sản phẩm chủ lực (ví dụ: lúa hữu cơ, rau VietGAP, thủy sản…), bao gồm cả tiêu chuẩn chất lượng, truy xuất nguồn gốc, logistics và chính sách hỗ trợ OCOP.

Một nội dung trọng tâm cần nhấn mạnh là kiến thức về mô hình tổ chức hợp tác xã kiểu mới, giúp Ban quản trị phân biệt rõ giữa mô hình dịch vụ truyền thống và mô hình liên kết sản xuất – kinh doanh hiện đại. Việc hiểu đúng về vai trò của hội đồng quản trị, giám đốc điều hành, kiểm soát viên sẽ giúp hợp tác xã thiết lập cơ cấu tổ chức minh bạch, chuyên nghiệp hơn.

Ngoài ra, ban quản trị cần được trang bị kiến thức pháp lý, tài chính, tín dụng nông nghiệp, môi trường, an toàn thực phẩm, đầu tư công – tư và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là các hành lang pháp lý giúp hợp tác xã vận hành đúng quy định, tiếp cận nguồn lực và tránh rủi ro trong hoạt động.

Hình thức đào tạo cũng cần linh hoạt và thực tiễn, không chỉ dừng lại ở lớp học truyền thống mà mở rộng sang mô hình học tập tại chỗ, tham quan các hợp tác xã tiêu biểu (như Hợp tác xã rau Đà Lạt, Hợp tác xã gạo ST25 Sóc Trăng…), hội thảo chuyên đề, học tập qua video, hoặc cố vấn từ trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Việc này không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn phù hợp với đặc điểm thời gian và điều kiện của cán bộ hợp tác xã.

Liên minh hợp tác xã tỉnh, Trung tâm Khuyến nông, các trường đại học chuyên ngành cần đóng vai trò chủ lực trong phát triển chương trình đào tạo trực tuyến, cấp chứng chỉ, xây dựng “thư viện số hợp tác xã” và tổ chức hội thảo định kỳ cập nhật thông tin thị trường, công nghệ và chính sách mới. Việc thiết lập cơ chế “đào tạo lại – đào tạo nâng cao – cập nhật liên tục” là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh ngành nông nghiệp biến động nhanh chóng.

Bên cạnh đó, cần có cơ chế đánh giá và khuyến khích áp dụng kiến thức sau đào tạo, thông qua việc xây dựng kế hoạch sản xuất – kinh doanh, dự án đầu tư hoặc sáng kiến cải tiến trong quản lý hợp tác xã. Việc gắn kết quả học tập với đánh giá năng lực lãnh đạo, minh bạch hóa quá trình học và có chính sách ưu tiên hỗ trợ cho các hợp tác xã tích cực học tập sẽ tạo động lực thực chất.

4. Kết luận:

Năng lực quản lý của ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả vận hành và khả năng phát triển bền vững của các hợp tác xã trong bối cảnh hiện nay. Việc triển khai đồng bộ các giải pháp được đề xuất sẽ không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nội bộ của hợp tác xã mà còn thúc đẩy sự chuyên nghiệp hóa của khu vực kinh tế tập thể tại các tỉnh, thanh phố. Từ đó, hợp tác xã nông nghiệp có thể thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong xây dựng nông thôn mới, phát triển nông nghiệp sinh thái và nâng cao vị thế nông dân trong chuỗi giá trị nông sản hiện đại.

Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 20‑NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới.
2. Quốc hội (2012). Luật Hợp tác xã năm 2012.
3. Quốc hội (2023). Luật Hợp tác xã năm 2023.
4. Thái Bình phát triển HTX nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. https://danviet.vn/thai-binh-phat-trien-htx-nong-nghiep-gan-voi-xay-dung-nong-thon-moi-20241030083403826-d1192272.html?
2. Nguyễn Văn Thịnh (2019). Phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia.
4. Góp phần luận giải một số điểm mới của Luật hợp tác xã năm 2023 về mô hình hợp tác xã kiểu mới ở Việt Nam hiện nay – Qua tổng kết thực tiễn mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn 2012 – 2022. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/2018/1054502/view_content.
5. Nguyễn, T. L., & Lê, M. H. (2021). Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp ở Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa học Đại học Huế, 130(5A), tr. 45-56. https://jos.hueuni.edu.vn/index.php/hujos-ed/article/view/6935.