ThS. Nguyễn Thi Bích Ngọc
Học viện Ngoại giao
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong ba thập kỷ qua, mối quan hệ giữa Việt Nam – Cộng hòa Liên bang (CHLB) Đức đã có những bước phát triển vượt bậc, đặc biệt sau khi được nâng tầm lên Đối tác chiến lược năm 2011. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng phức tạp, việc thúc đẩy hợp tác giữa hai quốc gia phản ánh tầm nhìn dài hạn vì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững. Bài viết đánh giá các lĩnh vực hợp tác nổi bật và nhận diện các trụ cột chiến lược có thể được khai thác mạnh hơn trong tương lai. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng trong bối cảnh hiện nay.
Từ khóa: Việt Nam; Cộng hòa Liên bang Đức; hợp tác; nâng cao; hiệu quả; toàn cầu hóa.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là đối tác quan trọng của CHLB Đức tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương1. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn biến phức tạp với sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ, cạnh tranh chiến lược và khủng hoảng phi truyền thống, các quốc gia buộc phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại nhằm củng cố năng lực nội sinh và mở rộng hợp tác bền vững. Việc tăng cường quan hệ hợp tác chiến lược giữa Việt Nam (một nền kinh tế năng động ở Đông Nam Á) và CHLB Đức (một cường quốc kinh tế và “cường quốc mềm” hàng đầu châu Âu) là yêu cầu khách quan, mang tính song hành giữa lợi ích quốc gia và trách nhiệm toàn cầu. Đánh giá đúng tiềm năng và định hướng hợp tác giữa hai nước trong bối cảnh toàn cầu hóa là yêu cầu cần thiết nhằm nâng tầm hiệu quả của quan hệ đối tác chiến lược Việt – Đức trong dài hạn.
2. Kết quả hợp tác giữa Việt Nam – CHLB Đức
Mối quan hệ Việt Nam – CHLB được thiết lập vào ngày 23/9/1975 trong bối cảnh Việt Nam vừa thống nhất đất nước. Trong giai đoạn đầu, hợp tác chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nhân đạo và giáo dục, đặc biệt là tiếp nhận học sinh, sinh viên và người lao động Việt Nam sang Đức. Tuy nhiên, kể từ đầu thế kỷ XXI, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO, 2007) và Đức đóng vai trò là đầu tàu kinh tế EU, quan hệ song phương đã mở rộng về chiều sâu và chiều rộng. Đỉnh cao là việc hai nước nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược vào tháng 10 năm 2011, đánh dấu một bước ngoặt về định hướng chính sách đối ngoại hai nước, chuyển từ hợp tác phát triển sang hợp tác cùng có lợi và chiến lược. Từ đó đến nay, hai nước thúc đẩy cơ chế hợp tác đa tầng, bao gồm cả:ngoại giao chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng – an ninh và khoa học – công nghệ. Một số kết quả nổi bật:
Thứ nhất, hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư. Việt Nam là một trong số các đối tác quan trọng hàng đầu của CHLB Đức trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương; đồng thời Đức sẽ tiếp tục là một trong những đối tác thương mại hàng đầu và là một trong những nhà đầu tư lớn của Việt Nam2. Trong đó, hợp tác kinh tế là một trong những trụ cột quan trọng và năng động nhất trong quan hệ Việt Nam – Đức với xu hướng ngày càng thực chất, đa dạng hóa lĩnh vực và nâng cao về chất lượng. Năm 2023, kim ngạch thương mại hai chiều đạt hơn 11 tỷ USD. Đức là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam ở châu Âu. Hiện nay có trên 350 doanh nghiệp Đức hoạt động tại Việt Nam. Tính đến tháng 5/2023, Đức có 444 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là trên 2,36 tỷ USD, đứng thứ 18/143 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt3.
Thứ hai, hợp tác giáo dục – đào tạo. Giáo dục là một trong những lĩnh vực trọng tâm hợp tác của Đức tại Việt Nam. Hiện nay có khoảng 300 nghiên cứu sinh Việt Nam nhận học bổng nghiên cứu tại Đức và khoảng 7.500 sinh viên Việt Nam đang theo học tại các trường đại học của Đức. Hai nước cũng hợp tác trong lĩnh vực đào tạo nghề. Trường Đại học Việt Đức là một trong những biểu tượng hợp tác giáo dục giữa Chính phủ Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức. Trường hướng đến mô hình đại học xuất sắc không chỉ của Việt Nam mà có tầm nhìn lâu dài thành một trường đại học xuất sắc của khu vực4.
Thứ ba, hợp tác khoa học – công nghệ. Hợp tác khoa học – công nghệ giữa Việt Nam và CHLB Đức đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. Năm 1997, Nghị định thư hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam cùng Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Đức đã tạo nền tảng pháp lý cho việc tăng cường hợp tác. Theo đó, hai nước thường xuyên trao đổi thông tin, tổ chức hội thảo và thực hiện các dự án chung, nhất là trong các lĩnh vực nghiên cứu biển, công nghệ xử lý nước và môi trường. Hợp tác khoa học – công nghệ không chỉ mang lại lợi ích cho Việt Nam và Đức mà còn đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu, khẳng định vị thế quan trọng của Đức trong đổi mới sáng tạo tại Việt Nam5.
Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác đa phương, giao lưu nhân dân. Đức và Việt Nam thúc đẩy chủ nghĩa đa phương; tiếp tục phối hợp chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương, đặc biệt là Liên hiệp quốc và các diễn đàn liên nghị viện; ủng hộ giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hiệp quốc và Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển1982. Đồng thời, hai nước cũng trao đổi về các biện pháp thúc đẩy giao lưu nhân dân, trong đó có việc tạo điều kiện cho cộng đồng gần 300.000 người Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm việc tại Đức6.
Thứ năm, hợp tác quốc phòng – an ninh đã có những bước tiến nổi bật, mang tính chiến lược trong những năm qua và đã trở thành một trụ cột chính, quan trọng trong quan hệ Đối tác chiến lược giữa hai nước, đặc biệt trong bối cảnh những thách thức địa chính trị ngày càng gia tăng trên toàn cầu và khu vực. Bước tiến mang tính lịch sử là tháng 11/2022, Bộ Quốc phòng hai nước đã ký kết Thỏa thuận hợp tác Quốc phòng nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng CHLB Đức Olaf Scholz7.
Với thỏa thuận quan trọng hàng đầu này, quan hệ quốc phòng giữa CHLB Đức và Việt Nam đã vươn đến tầm cao mới, đóng góp hiệu quả vào việc phát triển quan hệ Đối tác chiến lược. Nhiều lĩnh vực hợp tác quốc phòng được thúc đẩy, như: đối thoại về chính sách an ninh chiến lược; đào tạo lực lượng sỹ quan Việt Nam của các quân binh chủng, các ngành công nghệ cao về quân sự; trao đổi về công tác lãnh đạo và giáo dục quân nhân; hợp tác trong các lực lượng quân y, lực lượng gìn giữ hòa bình, lực lượng hóa học; hỗ trợ về công tác xây dựng và triển khai Luật quân sự; hợp tác phòng thủ dân sự, công nghiệp quốc phòng… qua đó, góp phần xây dựng lòng tin cậy chiến lược, phát triển tiềm lực quốc phòng và duy trì môi trường hòa bình, ổn định, ngăn ngừa xung đột trong khu vực và trên quốc tế8.
Thứ sáu, về môi trường, phát triển bền vững. Từ năm 2020, Chính phủ Đức xác định Việt Nam là “đối tác toàn cầu” trong chiến lược hợp tác phát triển đến năm 2030 với trọng tâm hợp tác về đào tạo, tăng trưởng bền vững, khí hậu và năng lượng, môi trường và tài nguyên thiên nhiên, cùng phòng, chống đại dịch. Đức cam kết hỗ trợ ODA cho Việt Nam hơn 143,5 triệu euro trong giai đoạn 2022 – 2023, theo đó triển khai 78 dự án về biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học, trong đó có dự án “Hỗ trợ Việt Nam thực hiện Thỏa thuận Paris” (VN-SIPA)9.
Thứ bảy, hợp tác y – dược. Trong lĩnh vực này, giữa Việt Nam và CHLB Đức đạt nhiều kết quả trong chăm sóc sức khỏe, nghiên cứu dược phẩm, đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ. Các hoạt động hợp tác tiêu biểu, như: dự án Tăng cường hệ thống y tế tuyến tỉnh (2009 – 2016) đã đóng góp vào việc cải thiện kết cấu hạ tầng, năng lực y tế và chất lượng chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam. Đức hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực y tế từ xa, xử lý rác thải y tế và trao đổi chuyên gia, đồng thời triển khai các chương trình đào tạo điều dưỡng viên Việt Nam sang Đức làm việc. Trong đại dịch Covid -19, hai nước duy trì hợp tác chặt chẽ qua các hình thức linh hoạt. Đức hỗ trợ Việt Nam hơn 12,5 triệu liều vaccine và thiết bị y tế, trong khi Việt Nam cung cấp vật tư y tế10.
Thứ tám, hợp tác chuyển đổi năng lượng và phát triển bền vững. CHLB Đức hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng và xây dựng nguồn năng lượng tái tạo; hỗ trợ thực hiện và kiểm tra đóng góp quốc gia về bảo vệ khí hậu (NDCs). Ngoài ra, Bộ Môi trường Liên bang Đức cũng hỗ trợ Việt Nam trong khuôn khổ quỹ bảo vệ khí hậu toàn cầu (IKI) với các dự án, như: thích ứng với biến đổi khí hậu cho người dân vùng ven biển, dự án hỗ trợ bảo vệ rừng11.
Thứ chín, hợp tác văn hóa – xã hội. Hợp tác giữa Việt Nam và CHLB Đức trong lĩnh vực này có lịch sử lâu đời, bắt đầu từ năm 1955 với cầu nối đặc biệt được hình thành từ cộng đồng gần 200.000 người Việt Nam tại Đức và khoảng 100.000 người tại Việt Nam biết tiếng Đức. Hiệp định hợp tác văn hóa từ năm 1990 đã tạo nền móng cho các hoạt động giao lưu nghệ thuật, nghiên cứu ngôn ngữ và bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam, với các dự án tiêu biểu, như: trùng tu cung An Định và điện Phụng Tiên do Đức tài trợ. Các trung tâm văn hóa, như: Viện Goethe, Ngôi nhà Đức tại TP. Hồ Chí Minh góp phần củng cố sự hiểu biết song phương. Thông qua đó, cộng đồng người Việt Nam tại Đức tăng cường các hoạt động ý nghĩa về văn hóa, giáo dục, kinh tế, tạo sự đoàn kết và hội nhập. Hai nước thường xuyên tổ chức các sự kiện giao lưu văn hóa, như biểu diễn nghệ thuật, triển lãm ẩm thực, chương trình quảng bá văn hóa, góp phần thắt chặt tình hữu nghị và xây dựng nền tảng bền vững cho quan hệ song phương12.
Có thể khẳng định, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam – CHLB Đức đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong nhiều lĩnh vực trong những năm qua. Những thành tựu này là minh chứng rõ nét cho mối quan hệ đối tác chiến lược sâu sắc, hiệu quả và toàn diện giữa Việt Nam và Đức. Tuy nhiên, dư địa phát triển giữa hai nước vẫn còn rất lớn. Chẳng hạn: (1) Về kinh tế, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Đức có nhiều tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, như: lĩnh vực nông sản, dệt may và điện tử thông qua Hiệp định EVFTA; trong khi đó, doanh nghiệp Đức có thể tận dụng môi trường đầu tư thuận lợi tại Việt Nam để mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh; (2) Về khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo: Việt Nam đang có cơ hội lớn để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và AI, đặc biệt khi có nguồn nhân lực trẻ dồi dào, được đào tạo tốt. Vì vậy, Việt Nam cần tận dụng các cơ hội hợp tác với Đức (quốc gia có nền tảng khoa học – công nghệ tiên tiến) trên cơ sở đôi bên cùng có lợi; (3) Về hợp tác trong lĩnh vựcy – dược: Đức và Việt Nam có thể hợp tác trong đào tạo nhân lực, nhất là đào tạo chuyên sâu cho nhân viên y tế và điều dưỡng viên, giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam. Đồng thời, việc cải thiện kết cấu hạ tầng y tế và tiếp cận công nghệ y tế tiên tiến sẽ đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe ở cả hai quốc gia; …
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua nhiều biến động, bức tranh địa – chính trị toàn cầu ngày càng khó đoán định như hiện nay thì việc tăng cường hợp tác và phát triển bền vững là yếu tố then chốt cho sự phát triển của các quốc gia. Do vậy, cần có các giải pháp để giúp hai nước tiếp tục khai thác tiềm năng hợp tác toàn diện hơn trong các lĩnh vực, đồng thời là cơ sở để thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa hai nước được nâng lên tầm cao mới.
3. Một số giải pháp
Một là, cần thiết lập cơ chế đối thoại cấp cao thường niên và điều phối liên ngành. Mặc dù Việt Nam và CHLB Đức đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược từ năm 2011, các cơ chế điều phối chiến lược liên ngành giữa hai nước chưa thật sự tương xứng với tiềm năng hợp tác hiện có. Vì vậy, cần: (1) Thành lập cơ chế đối thoại cấp cao thường niên ở cấp Thủ tướng hoặc Phó Thủ tướng nhằm định hướng các lĩnh vực hợp tác chiến lược, rà soát tiến độ thực hiện các cam kết, và xử lý các điểm nghẽn thể chế, hành chính; (2) Xây dựng Nhóm công tác liên ngành Việt – CHLB Đức trong các lĩnh vực ưu tiên, như: năng lượng, chuyển đổi số, logistics, giáo dục – đào tạo để bảo đảm sự phối hợp chính sách nhất quán, hiệu quả và thực chất; (3) Đẩy mạnh vai trò của Đại sứ quán, Tổng lãnh sự và các tổ chức xúc tiến đầu tư, thương mại (như GIC/AHK Việt Nam, VCCI) trong việc kết nối chính phủ – doanh nghiệp – trường đại học/ học viện/ viện nghiên cứu giữa hai quốc gia.
Hai là, tăng cường liên kết doanh nghiệp – viện nghiên cứu – trường đại học/ học viện trong phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Trong kỷ nguyên kinh tế tri thức, sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các trường đại học/ học viện đóng vai trò trung tâm để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và tạo ra các chuỗi giá trị mới. Trên cơ sở đó, cần: (1) Mở rộng các chương trình hợp tác nghiên cứu chung (joint research) giữa các viện nghiên cứu- trường đại học giữa hai nước, đặc biệt trong các lĩnh vực, như: trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, công nghệ vật liệu, kinh tế số và quản trị thông minh; (2) Hỗ trợ hình thành các Trung tâm đổi mới sáng tạo liên kết Việt – Đức tại Việt Nam, kết nối các doanh nghiệp Đức với các startup, nhà sáng chế và nhóm nghiên cứu của Việt Nam; (3) Tăng cường chính sách hỗ trợ từ Nhà nước để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ của hai nước tham gia vào hệ sinh thái đổi mới, thông qua các quỹ nghiên cứu ứng dụng, vườn ươm khởi nghiệp và chương trình thực tập – học bổng doanh nghiệp. Việc phát triển hệ sinh thái đổi mới không chỉ phục vụ tăng trưởng kinh tế mà còn thúc đẩy nội lực sáng tạo và phát triển bền vững về dài hạn cho cả hai quốc gia.
Ba là, thúc đẩy giao lưu nhân dân và ngoại giao văn hóa. Trên nền tảng lịch sử giao lưu văn hóa và giáo dục tương đối sâu rộng, Việt Nam và CHLB Đức cần: (1) Tăng cường các chương trình trao đổi thanh niên, sinh viên, nghệ sĩ và trí thức thông qua học bổng, chương trình trao đổi ngắn hạn, thực tập nghề và các dự án cộng đồng; (2) Mở rộng các hoạt động ngoại giao văn hóa hai chiều, bao gồm: tuần lễ Đức tại Việt Nam và Việt Nam tại Đức, liên hoan phim, triển lãm nghệ thuật, các chương trình giáo dục xuyên văn hóa trong trường học và đại học; (3) Tận dụng các kênh mới, như: ngoại giao số, mạng xã hội và văn hóa số để giới thiệu giá trị văn hóa của mỗi nước tới giới trẻ, đồng thời thúc đẩy hình ảnh quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Những hoạt động này đóng vai trò nền tảng trong việc xây dựng “lòng tin chiến lược” (strategic trust) – yếu tố cốt lõi để bảo đảm sự gắn bó và phát triển ổn định trong quan hệ hai nước.
Bốn là, tăng cường năng lực nội tại của Việt Nam để tiếp nhận và “nội địa hóa” hợp tác chiến lược. Để khai thác hiệu quả tiềm năng hợp tác với Đức – một nền kinh tế công nghệ cao và thể chế phát triển, Việt Nam cần nâng cao năng lực nội sinh, nhất là trong bốn phương diện then chốt: (1) Tiếp tục hoàn thiện thể chế và khuôn khổ pháp lý, bảo đảm sự ổn định, minh bạch, nhất quán trong chính sách đầu tư, thuế, sở hữu trí tuệ và môi trường cạnh tranh; đồng thời tiếp tục cải cách thủ tục hành chính để thu hút dòng vốn chất lượng cao; (2) Cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Đổi mới mô hình đào tạo theo hướng thực hành, số hóa, tăng cường năng lực ngoại ngữ, tư duy phản biện và kỹ năng số cho lực lượng lao động trẻ; (3) Tiếp thu có chọn lọc công nghệ và quản trị Đức. Không chỉ tiếp nhận máy móc hay kỹ thuật mà cần học hỏi tư duy hệ thống, kỷ luật lao động, chuẩn hóa sản xuất và quản trị thông minh;(4) Tăng cường năng lực hoạch định và điều hành chính sách công; đặc biệt trong các lĩnh vực mới, như: công nghệ số, kinh tế tuần hoàn, tài chính xanh, an ninh năng lượng và an toàn thông tin.
Chú thích:
1, 3, 4. Động lực mới thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – Đức. https://baochinhphu.vn/dong-luc-moi-thuc-day-quan-he-doi-tac-chien-luoc-viet-nam-duc-102240119172438159.htm
2, 6. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn gặp Chủ tịch Thượng viện Đức, Chủ tịch Thượng viện Canada. https://baochinhphu.vn/chu-tich-quoc-hoi-tran-thanh-man-gap-chu-tich-thuong-vien-duc-chu-tich-thuong-vien-canada-102250730193327215.htm
5, 9, 10, 12. Năm mươi năm quan hệ hợp tác Việt Nam – Đức: Thành tựu và triển vọng. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1094702/nam-muoi-nam-quan-he-hop-tac-viet-nam—duc–thanh-tuu-va-trien-vong.
7, 8. Dấu ấn hợp tác Việt Nam-CHLB Đức: Tương lai tươi sáng trên nền tảng vững bền. https://www.vietnambotschaft.org/dau-an-hop-tac-viet-nam-chlb-duc-tuong-lai-tuoi-sang-tren-nen-tang-vung-ben
11. Hợp tác phát triển Đức với Việt Nam. https://vietnam.diplo.de/vn-vi