TS. Nguyễn Tuấn Dũng
TS. Nguyễn Mạnh Hổ
TS. Hoàng Minh Đẹp
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, việc giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế cho các chủ thể kinh tế nói chung và người lao động nói riêng là vấn đề quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, ổn định xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết phân tích tổng quan lý luận về lợi ích kinh tế và quan hệ giữa lợi ích kinh tế và người lao động với các chủ thể kinh tế khác, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế cho người lao động trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Lợi ích kinh tế, quan hệ lợi ích kinh tế, người lao động kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Đặt vấn đề
Sau gần 40 năm đổi mới, để đất nước có được vị thế và uy tín trên trường quốc tế như hiện nay có vai trò rất lớn của cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh sự đóng góp tích cực vào nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp còn giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế cho người lao động. Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội1. Các doanh nghiệp tư nhân đã thực hiện khá tốt chính sách bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động.
Tuy nhiên, việc giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế cho người lao động trong các doanh nghiệp hiện nay vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập về quy mô, tiềm lực tài chính và trình độ quản trị; năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh; tư duy kinh doanh,… Đây cũng là lý do để việc giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế cho người lao động còn những hạn chế nhất định.
2. Những vấn đề chung về lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1. Về lợi ích kinh tế
Trong tác phẩm Tư bản, C. Mác dù không bàn về “lợi ích kinh tế” như các nhà kinh tế học cổ điển hay hiện đại, mà ông tiếp cận vấn đề này từ góc độ phê phán chế độ tư bản và quan hệ sản xuất trong xã hội. Ông cho rằng, lợi ích kinh tế không tồn tại một cách trung lập, mà luôn gắn với vị trí giai cấp trong quan hệ sản xuất. C. Mác viết: “giai cấp tư sản đã là giai cấp mạnh nhất về kinh tế trong dân cư, nhà nước phải đặt chính sách của mình phục vụ lợi ích kinh tế của giai cấp tư sản”2. Theo C. Mác, trong xã hội tư bản, lợi ích kinh tế của giai cấp tư sản có được nhờ dựa vào chiếm hữu tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư của người lao động làm thuê trong quá trình sản xuất.
C. Mác nhấn mạnh: “… có thể kết luận rằng mỗi nhà tư bản cá biệt, cũng như toàn bộ những tư bản trong mỗi lĩnh vực sản xuất riêng biệt, thông qua tổng tư bản, đều tham dự vào việc bóc lột toàn thể giai cấp công nhân và vào mức độ bóc lột đó, không chỉ do sự đồng tình giai cấp nói chung mà còn do lợi ích kinh tế trực tiếp nữa, vì – nếu ta giả định rằng tất cả những điều kiện khác, kể cả giá trị toàn bộ tư bản bất biến đã ứng ra, đều không thay đổi – tỷ suất lợi nhuận trung bình cao hay thấp là tùy ở mức độ mà toàn bộ tư bản bóc lột toàn bộ lao động”3. Đồng thời, C. Mác cũng khẳng định, xung đột lợi ích giữa các giai cấp là điều tất yếu và là động lực thúc đẩy sự vận động, phát triển của xã hội. Tuy nhiên, C. Mác cũng phê phán tư tưởng coi lợi ích cá nhân là động lực tối cao như trong chủ nghĩa cá nhân tư sản. Còn trong xã hội tương lai, xã hội cộng sản, lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể sẽ hòa hợp, bởi sản xuất vì nhu cầu chung chứ không vì lợi nhận cá nhân.
Theo quan điểm của V.I. Lênin, chủ trương xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nhưng không phủ nhận vai trò của lợi ích cá nhân trong sản xuất và tiêu dùng. Nhất là trong thời kỳ Chính sách kinh tế mới (NEP), V.I. Lênin cho phép tồn tại kinh tế tư nhân ở mức độ nhất định để phục hồi sản xuất sau nội chiến. Tức là lợi ích kinh tế cá nhân và tập thể phải được quản lý, điều tiết trong khuôn khổ pháp luật và định hướng xã hội chủ nghĩa. Ông không xem nhẹ lợi ích cá nhân mà ngược lại, coi nó là động lực cần thiết, miễn là được định hướng phục vụ cho lợi ích chung của xã hội.
2.2. Về quan hệ lợi ích kinh tế
Thứ nhất, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ lợi ích kinh tế.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin xem quan hệ lợi ích kinh tế là một trong những nội dung cốt lõi để phân tích các quá trình và mâu thuẫn trong đời sống kinh tế – xã hội: “Đảng tự do – dân tộc là đảng của giai cấp tư sản Đức, trước là của giai cấp tư sản Phổ, thành lập vào mùa thu năm 1866 do sự chia rẽ của đảng tư sản những người tiến bộ. Đảng tự do – dân tộc từ bỏ yêu sách của giai cấp tư sản đòi nắm quyền thống trị chính trị để thoả mãn lợi ích kinh tế của giai cấp đó”4. Đồng thời, quan hệ lợi ích kinh tế được xác định là những liên kết với mục tiêu lợi ích được xác lập một cách có ý thức trong quá trình tương tác giữa các thành viên trong xã hội dựa trên cơ sở kinh tế nhất định.
Mặt khác, quan hệ lợi ích kinh tế luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong từng lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế – xã hội, tạo thành hệ thống quan hệ lợi ích kinh tế tương ứng trên lĩnh vực đó. Quan hệ lợi ích kinh tế còn là động cơ thúc đẩy sự liên hệ mật thiết giữa các chủ thể kinh tế, tạo thành nền tảng động lực thúc đẩy xã hội phát triển và góp phần vào giải phóng sức sản xuất mà trước hết là giải phóng sức sáng tạo của con người: “Vì vậy, việc trao đổi giữa họ với nhau hầu như không thể có được. Do chỗ thành phần như vậy của bộ tộc chỉ gồm những công xã nhỏ mà những lợi ích kinh tế của chúng thậm chí giống nhau, nhưng cũng chính vì vậy mà không phải là những lợi ích kinh tế chung, nên một chính quyền nhà nước sản sinh ra không phải từ nội bộ các công xã, mà là đối lập thù địch với các công xã và ngày càng bóc lột các công xã, trở thành điều kiện tồn tại sau này của dân tộc”5.
Thứ hai, các loại hình quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
(1) Tiếp cận theo các chủ thể kinh tế trong nền sản xuất xã hội: có quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động với người sử dụng lao động; quan hệ giữa những người sử dụng lao động; quan hệ giữa những người lao động; quan hệ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích xã hội; quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với công dân; quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với doanh nghiệp.
(2) Tiếp cận theo các bộ phận của nền kinh tế, quan hệ kinh tế, trong khu vực kinh tế nhà nước có quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp nhà nước; quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước với người lao động; quan hệ giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau; quan hệ giữa khu vực kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác và quan hệ giữa Nhà nước và toàn xã hội. Trong khu vực kinh tế tư nhân có quan hệ lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp tư nhân; giữa doanh nghiệp tư nhân với các hộ gia đình.
(3) Tiếp cận theo tiêu chí chủ thể quốc gia: có quan hệ lợi ích kinh tế giữa Việt Nam với phần còn lại của thế giới dựa trên các nguyên tắc:hợp tác cùng có lợi; cạnh tranh kinh tế; xung đột lợi ích; yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế giữa các quốc gia và vai trò của tổ chức quốc tế trong điều phối lợi ích giữa các quốc gia.
3. Thực trạng giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế cho người lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3.1. Những kết quả đạt được
Một là, Đảng và Nhà nước luôn đưa ra nhiều chủ trương, chính sách hướng đến hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động.
Trong giai đoạn 2020 – 2024, để hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh và ổn định thu nhập cho người lao động, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ. Cụ thể: Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 21/4/2023 về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025.
Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân… Bên cạnh đó có hệ thống luật: Luật Nhà ở năm 2023, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024. Nghị định số 98/2024/NĐ-CP ngày 25/7/2024 quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở về cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư.
Hai là, chính sách an sinh xã hội cho người lao động trong các doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên.
Chính sách an sinh xã hội cho người lao động luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và được các doanh nghiệp thực hiện thường xuyên và đạt được kết quả nhất định, bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Trong giai đoạn 2020 – 2024, phần lớn doanh nghiệp trên cả nước đã thực hiện chính sách an sinh xã hội khá đầy đủ và đúng pháp luật, nhiều doanh nghiệp đã bảo đảm đầy đủ việc làm, thu nhập ổn định cho người lao động; đã đóng bảo hiểm, bố trí được chỗ ở, phương tiện đi lại cho người lao động… Cụ thể, năm 2021, doanh nghiệp đã bảo đảm việc làm cho người lao động ước tính là 49,1 triệu người6. Đến năm 2024, lao động có việc làm là 51,9 triệu người, tăng 585,1 nghìn người (tương ứng tăng 1,1%) so với năm 20237.
Thu nhập của người lao động trong giai đoạn 2020 – 2024 có xu hướng tăng. Cụ thể, năm 2020 thu nhập bình quân của người lao động đạt hơn 5,2 triệu đồng/tháng; năm 2021, 2022, 2023 lần lượt là 5,9 triệu, 6,5 triệu và 7,3 triệu đồng/tháng. Riêng năm 2024 là 8,2 triệu đồng/tháng, tăng 890 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 20238. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2024 là 2,24%, giảm 0,04 điểm phần trăm so với năm trước, trong đó khu vực thành thị là 2,53%; khu vực nông thôn là 2,05%9.
Số người lao động được doanh nghiệp đóng bảo hiểm xã hội khoảng 20,11 triệu, tăng 9,2% so với năm 2023, đạt tỷ lệ 42,71% so với lực lượng lao động trong độ tuổi. Trong đó, số người tham gia bảo hiểm tự nguyện khoảng 2,292 triệu người, đạt khoảng 4,8% lực lượng lao động trong độ tuổi. Số người tham gia bảo hiểm y tế là 95,523 triệu người, tăng 2% so với năm 2023, đạt tỷ lệ 94,2%. Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp khoảng 16,093 triệu người, tăng 8,8% so với năm 2023, đạt khoảng 34,18% lực lượng lao động trong độ tuổi. Số lượng người lao động khám chữa bệnh bảo hiểm y tế nội trú và ngoại trú năm 2024 tăng hơn 12,2 triệu người so với năm 202310.
Để bảo đảm nhà ở, chỗ ở cho người lao động, sau khi Luật Nhà ở năm 2023 có hiệu lực từ 01/8/2024, Nhà nước cùng cộng đồng doanh nghiệp đã tích cực triển khai và thực hiện có hiệu quả. Cụ thể, trong năm 2023, đã hoàn thành 307 dự án nhà ở xã hội khu vực đô thị, quy mô xây dựng khoảng 157.100 căn với tổng diện tích hơn 7.950.000m11. Riêng năm 2024, có 507 dự án nhà ở xã hội độc lập với tổng diện tích đất hơn 1.375 ha và 533 dự án được xây dựng trên quỹ đất 20% của các dự án nhà ở thương mại, dự án phát triển đô thị với tổng diện tích đất hơn 1.983 ha12.
3.2. Những khó khăn, tồn tại
Một là, tỷ lệ người lao động trong các doanh nghiệp thất nghiệp và thiếu việc làm còn cao.
Trong năm 2024, số lượng lao động thiếu việc làm khoảng 764,6 nghìn người; trong đó, khu vực thành thị chiếm 1,27%, khu vực nông thôn là 1,91%. Số lao động thiếu việc làm trong độ tuổi lao động ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 381,5 nghìn người, chiếm 49,9%; khu vực công nghiệp và xây dựng là 140,5 nghìn người, chiếm 18,4%; khu vực dịch vụ là 242,6 nghìn người, chiếm 31,7%, giảm 8,2 nghìn người. Tính chung năm 2024, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 846,8 nghìn người, trong đó, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,84%, tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,28%, tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,2013.
Hai là, số lượng người lao được đóng bảo hiểm, được hưởng chính sách nhà ở xã hội còn thấp.
Theo số liệu từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam giai đoạn 2020 – 2024, tình trạng chậm đóng và nợ bảo hiểm xã hội trở thành vấn đề nghiêm trọng với tổng số nợ lên đến hơn 16 nghìn tỷ đồng. Trong đó, nợ bảo hiểm xã hội tại một số doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ đang có xu hướng gia tăng. Qua thanh tra trên cả nước, đã xử phạt 16 tỷ đồng đối với 600 công ty nợ bảo hiểm, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ14. Phần lớn doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ chưa bảo đảm được chỗ ở, nhà ở cho người lao động. Hiện nay, tỷ lệ người lao động được hưởng chính sách nhà ở xã hội còn thấp so với nhu cầu thực tế.
4. Một số giải pháp
Thứ nhất, nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo, linh hoạt quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về lợi ích kinh tế và giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lợi ích kinh tế và giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế cho người lao động, cần xác lập rõ hơn quyền hạn và nghĩa vụ của các chủ thể kinh tế trong xã hội, chống lợi ích nhóm… Trong đó, cần xây dựng và ban hành hệ thống những bộ luật trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp đại diện cho ý chí và nguyện vọng của người lao động.
Để giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế cho người lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện phòng, chống tham nhũng và lãng phí có hiệu quả. Bởi vì, tham nhũng làm xói mòn nguồn lực, tước đoạt các lợi ích chính đáng của xã hội. Do vậy, xét trong quan hệ lợi ích kinh tế, tham nhũng là sự tước đoạt lợi ích, phạm vi tác động sâu rộng nhất tới sự bất công trong quan hệ lợi ích. Vì vậy, triệt giảm tham nhũng là phương thức để bảo đảm hài hòa quan hệ lợi ích trên phạm vi xã hội hiệu quả nhất. Mặt khác, lãng phí cùng với tham nhũng còn làm cho việc phân bổ nguồn lực kém hiệu quả nhất, gây hệ luỵ lâu dài đối với quá trình phát triển. Bất cứ khi nào xảy ra lãng phí, khi đó có sự thiệt hại về lợi ích của xã hội, do đó sẽ gây ra bất công trong cơ hội thụ hưởng các giá trị phát triển.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chính sách về sở hữu và phân phối để giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế cho người lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế cho người lao động, nhân tố chủ quan đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình này là Đảng và Nhà nước. Sự tác động của Đảng và Nhà nước được thông qua các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật; trong đó, trực tiếp nhất chính là các đường lối, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực sở hữu và phân phối. Thông qua các chủ trương, chính sách, pháp luật về sở hữu và phân phối, Đảng, Nhà nước có thể tạo động lực cho các chủ thể hoạt động để đạt được lợi ích của mình. Mặt khác, sẽ tạo môi trường cho các chủ thể lợi ích đạt được mục tiêu nhất định thông qua việc xác định giới hạn quyền, trách nhiệm, lợi ích được hưởng của các chủ thể liên quan. Đi cùng với đó là việc bảo hộ sự công bằng trong mối quan hệ của các chủ thể để đạt được các mục tiêu phát triển.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần kịp thời tháo gỡ những điểm nghẽn về mặt thể chế kinh tế. Cụ thể hơn, đó là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đội ngũ này, với sứ mệnh công vụ, công chức của mình phải tạo ra những phương thức tháo gỡ các rào cản trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, chứ không phải là tạo ra những rào cản để vì lợi ích cục bộ. Bất kỳ sự lạm dụng quyền lực nào trong việc tạo ra các rào cản để mưu cầu lợi ích cục bộ đều gây phương hại tới môi trường kinh doanh tổng thể và sẽ gây ra hiệu ứng tiêu cực đối với sự vận động của các quan hệ kinh tế, các lợi ích kinh tế.
Thứ ba, thực hiện có hiệu quả chính sách tiền lương, kết hợp với chính sách an sinh xã hội.
Chính sách tiền lương là một trong những yếu tố then chốt trong quản lý nguồn nhân lực, có vai trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả lao động và sự phát triển bền vững của tổ chức, đặc biệt đối với mỗi doanh nghiệp. Do đó, trong thời gian tới, để thực hiện có hiệu quả chính sách tiền lương, kết hợp với chính sách an sinh xã hội cần quan tâm thực hiện tốt việc trả lương theo vị trí việc làm, theo trình độ năng lực và kết quả công việc, thay vì chỉ dựa vào thâm niên hoặc bằng cấp. Cần tách giữa lương và phụ cấp, tiến tới cấu trúc tiền lương rõ ràng, lương trở thành nguồn thu nhập chính. Hơn nữa, cần gắn tiền lương với năng suất lao động và hiệu quả thực thi công vụ; khuyến khích sáng tạo, đổi mới và cống hiến của các chủ thể kinh tế.
Quá trình thực hiện chính sách tiền lương cần bảo đảm mức sống tối thiểu cho người lao động và từng bước nâng cao, phù hợp với tăng trưởng kinh tế và phù hợp chỉ số giá tiêu dùng. Đồng thời, để thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội cần quan tâm mở rộng phạm vi bảm biểm xã hội, nhất là cho người lao động trong khu vực phi chính thức; bảo đảm cho các chủ thể kinh tế, nhất là người lao động tiếp cận các chính sách y tế, hưu trí, thất nghiệp và bảo hiểm tai nạn lao động. Trọng tâm, hướng vào cải cách chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện để hấp dẫn hơn; như linh hoạt mức đóng, thời gian đóng-hưởng phù hợp với người lao động có thu nhập thấp. Quan tâm thiết lập các chính sách hỗ trợ chi phí giáo dục, y tế, nhà ở, thực phẩm thiết yếu cho nhóm thu nhập thấp, lao động nghèo. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cao năng lực thanh tra, giám sát của các cơ quan nhà nước về việc thực thi pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm.
Thứ tư, ngăn ngừa và xử lý kịp thời những xung đột, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quan hệ lợi ích kinh tế, mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không giải quyết được sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến động lực các hoạt động kinh tế. Như mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa người sử dụng lao động và người lao động có thể dẫn đế biểu tình, đập phá nhà máy… Hay mâu thuẫn giữ những người lao động với nhau do trả công không công bằng có thể tạo ra sự căng thẳng ảnh hưởng đến năng suất lao động… Do đó, khi mâu thuẫn phát sinh cần tìm hiểu rõ nguyên nhân, tìm ra biện pháp khắc phục kịp thời, từ đó giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế cho người lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
5. Kết luận
Việc giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế cho người lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ là yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế mà còn là biểu hiện cụ thể của bản chất nhân văn, tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nếu quan hệ lợi ích kinh tế được giải quyết hài hòa sẽ chính là động lực trực tiếp, quan trọng để tạo động lực thúc đẩy người lao động cống hiến, sáng tạo. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để bảo đảm công bằng xã hội và ổn định quan hệ lao động và khắc phục có hiệu quả những hạn chế trong giải quyết mâu thuẫn về lợi ích kinh tế; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố niềm tin xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển đất nước.
Chú thích:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của về phát triển kinh tế tư nhân.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. 10 kết quả nổi bật của ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam năm 2024. https://nhandan.vn/10-ket-qua-noi-bat-cua-nganh-bao-hiem-xa-hoi-viet-nam-nam-2024-post854157.html
4. Cục Thống kê (2020). Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2020, Hà Nội.
5. Cục Thống kê (2021). Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2021.
6. Cục Thống kê (2022). Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2022.
7. Cục Thống kê (2023). Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2023.
8. Cục Thống kê (2024). Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2024.
9, 13. Thông cáo báo chí về tình hình lao động, việc làm quý IV và năm 2024. https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-iv-va-nam-2024/.
10. Báo cáo tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2024. https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/597/6818/bao-cao-tinh-hinh-dang-ky-doanh-nghiep-nam-2024.aspx.
11. Tổng kết thi hành chính sách phát triển nhà ở xã hội và định hướng dự thảo nghị quyết của quốc hội thí điểm một số chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội và nhà lưu trú công nhân khu công nghiệp. https://htpldn.moj.gov.vn/Pages/chi-tiet tin.aspx?ItemID.
12. Tháo gỡ khó khăn cho nhà ở xã hội phát triển. https://nhandan.vn/thao-go-kho-khan-cho-nha-o-xa-hoi-phat-trien-post745706.html.
14. Gia tăng nợ bảo hiểm xã hội ở doanh nghiệp vừa và nhỏ. https://vtv.vn/xa-hoi/gia-tang-no-bao-hiem-xa-hoi-o-doanh-nghiep-vua-va-nho-20240904204016107.htm.