ThS. Hoàng Thị Chung
NCS của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Những năm qua, cấp ủy, chính quyền các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Hồng đã chú trọng phát triển nguồn nhân lực, tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực chưa bảo đảm yêu cầu phát triển của vùng, đặc biệt trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới.
Từ khóa: Giải pháp; chất lượng; nguồn nhân lực; vùng đồng bằng sông Hồng.
1. Đặt vấn đề
Nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những người trong độ tuổi lao động, “có sức khỏe thể chất, tinh thần tốt; có trình độ tay nghề cao, khả năng lao động giỏi và kỹ năng chuyên môn tốt trong nghề; có những phẩm chất xã hội tốt đẹp, như tinh thần nhân văn, tập thể, hòa nhập, thích nghi làm việc trong môi trường đa văn hóa…”1. Quan điểm về vị trí, vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao được Đảng khẳng định xuyên suốt và bổ sung, hoàn thiện nội hàm qua các kỳ đại hội. Vùng đồng bằng sông Hồng gồm các tỉnh, thành phố (sau khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 của Quốc hội khóa XV): Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Ninh, Phú Thọ. Diện tích toàn vùng có thay đổi là 21.253 km2, chiếm 6,42% % diện tích Việt Nam; dân số 23.7 triệu người, chiếm 23,4% dân số cả nước.
Những năm qua, nền kinh tế – xã hội của vùng đồng bằng sông Hồng đã đạt nhiều kết quả tích cực, khẳng định được vị trí, vai trò của một vùng kinh tế năng động, phát triển, “là động lực phát triển hàng đầu, có vai trò dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước để tạo đột phá phát triển nhanh, bền vững” (Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 04/5/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050).
2. Tiềm năng và lợi thế về nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế của vùng đồng bằng sông Hồng
Vùng có những ưu thế, trong đó, Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh, đối ngoại của cả nước. Vùng có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời mang đậm đà bản sắc dân tộc; nhiều danh lam thắng cảnh và những di tích lịch sử gắn liền với những chiến công hào hùng, oanh liệt trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng bằng sông Hồng là hậu phương vững chắc, cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến chống giặc, góp phần giành lại nền độc lập của Tổ quốc.
Hiện nay, vùng có tiềm năng to lớn và nhiều lợi thế vượt trội so với nhiều vùng kinh tế khác; có vị trí thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội. Hiện trong vùng có các khu sinh thái đa dạng, có đồng bằng, trung du và miền núi; có đồng ruộng và đồng bằng ven biển từ Quảng Ninh đến Ninh Bình và đồng bằng châu thổ sông Hồng. Những vùng sinh thái phong phú như vậy là điều kiện cơ bản để phát triển nền sản xuất hàng hóa nông – lâm – ngư nghiệp toàn diện.
Bên cạnh đó, vùng đồng bằng sông Hồng có nguồn nhân lực lớn, trình độ dân trí cao, tập trung đội ngũ trí thức giỏi, Nhân dân có truyền thống lao động cần cù và sáng tạo. Vùng đã tập trung khoảng 26% số cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học, 72% số cán bộ có trình độ trên đại học, khoảng 23,6% lực lượng lao động kỹ thuật của cả nước2.
Chất lượng lao động ngày càng nâng cao. Lực lượng lao động của vùng có mặt bằng dân trí cao, tập trung nhiều trí thức có trình độ. Tính chung cả nước, khu vực đồng bằng sông Hồng tập trung khoảng 26% lao động có trình độ cao đẳng, đại học và 72% có trình độ trên đại học. Đồng thời, vùng cũng chiếm gần 1/4 số lượng lao động có trình độ kỹ thuật của cả nước, với tỷ lệ lao động có bằng cấp/chứng chỉ tăng từ 21,3% năm 2011 lên gần 37% năm 2021, cao hơn so với mức trung bình của cả nước là 26,1%. Đặc biệt, Hà Nội và Quảng Ninh có chất lượng lao động cao nhất, với tỷ lệ lao động qua đào tạo, có bằng cấp/chứng chỉ lần lượt là 50,27% và 42,07%3. Cơ cấu lao động trong vùng dần chuyển dịch theo hướng bền vững. Tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp của vùng là 13,55%, thấp hơn nhiều so với mức chung 29% của cả nước4.
Đặc biệt, vùng có 113 cơ sở giáo dục đại học, nhiều cơ sở giáo dục đại học đã được xếp hạng cao và tăng thứ bậc trên các bảng xếp hạng uy tín quốc tế. Số lượng các trường tăng khá nhiều, có sự tương quan khá chặt chẽ với sự phát triển kinh tế – xã hội giữa các vùng. Các trường phân bổ tập trung chủ yếu vào các vùng kinh tế phát triển, như: đồng bằng sông Hồng: 44,3%, Đông Nam Bộ: 18,4%, Tây Nguyên: 1,6%; Trung du miền núi phía Bắc: 5,7%, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: 18,4%; đồng bằng sông Cửu Long: 7%5. Công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ đạt nhiều kết quả tích cực, sản phẩm nghiên cứu ứng dụng ngày càng tăng về số lượng và chất lượng.
Mặc dù, tỷ lệ nhân lực qua đào tạo của vùng tăng lên nhưng phát triển nhân lực vùng còn có những hạn chế: (1) Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế, chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội; (2) Đội ngũ giáo viên thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng, thiếu giảng viên ở tất cả các cấp đào tạo làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học, nhất là chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (3) Cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo, do vậy, cơ cấu lao động tại vùng đồng bằng sông Hồng vẫn xuất hiện nhiều bất cập; (4) Chương trình đào tạo chưa được bổ sung thường xuyên cho phù hợp với nhu cầu thực tế(chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm, chưa điều chỉnh và cập nhật kịp thời những thành tựu công nghệ hiện đại và tham khảo các tài liệu của nước ngoài); (5) Trang thiết bị, cơ sở hạ tầng hiện đại chưa được trang bị đầy đủ, số lượng thiết bị thực hành của nhiều trường còn thiếu so với chương trình đào tạo, chất lượng các thiết bị thực hành còn cũ, lạc hậu và chưa đáp ứng theo quy đinh của chương trình khung… (6) Nhiều địa phương chưa xác định được cầu nhân lực, thu hút người tài, xong không bố trí việc làm hoặc làm việc không đúng chuyên môn trình độ, không có điều kiện để đối tượng phát triển tài năng, gây lãng phí nguồn nhân lực chất lượng cao.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của vùng đồng bằng sông Hồng
Để phát huy thế mạnh của vùng đồng bằng sông Hồng trong phát triển kinh tế giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, vùng đồng bằng sông Hồng cần xác định một số giải pháp phát huy nguồn nhân lực, cụ thể như sau:
Thứ nhất, có sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động ở tất cả các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh tế – xã hội của vùng và liên kết vùng; sự quyết tâm của vùng trong thay đổi đột phá phương thức xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo đó, cần xây dựng và phát triển không chỉ có bằng cấp mà chú trọng đến có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; có khả năng cập nhật, ứng dụng khoa học – công nghệ, lĩnh hội những tri thức mới của nhân loại; kịp thời thích nghi và thích ứng với những biến đổi nhanh của nền sản xuất hiện đại. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay, việc chuẩn hóa quy trình lao động, quy trình đánh giá theo hướng tiệm cận, đạt chuẩn quốc tế là yêu cầu tất yếu. Vì vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải có khả năng thích ứng tiêu chuẩn của thị trường lao động quốc tế với kiến thức chuyên môn sâu, có khả năng ứng dụng hiệu quả công nghệ tiên tiến vào công việc để đạt được năng suất và hiệu quả lao động cao nhất.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chính sách thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực ở vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng xem xét thế mạnh của từng trường đào tạo ở các tỉnh, thành phố trên địa bàn vùng đồng bằng sông Hồng, để xây dựng chiến lược cụ thể cho từng ngành nghề then chốt, nhất là những ngành phù hợp với xu thế hội nhập, như: kinh tế số, thương mại điện tử, ứng phó với biến đổi khí hậu… Đồng thời, cần phải chú trọng gắn kết quy hoạch vùng nhằm dự đoán chính xác nhu cầu thị trường lao động, bảo đảm người học có việc làm phù hợp với chuyên ngành đã được học. Cụ thể như, thành phố Hà Nội có hệ thống đa dạng các trường đại học, viện nghiên cứu được xem là gương điển hình, tạo sức lan tỏa cho cách tỉnh, thành phố trong toàn vùng.
Thứ ba, đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao vùng đồng bằng sông Hồng. Xây dựng chế độ đãi ngộ rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tiễn, có tính đột phá để người tài giỏi phát huy được năng lực, cống hiến xây dựng các địa phương phát triển. Hạn chế tình trạng dịch chuyển nguồn nhân lực giữa các vùng bất hợp lý, thông qua việc điều chỉnh các chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, bồi dưỡng nhân tài phù hợp. Trong công tác quy hoạch, ưu tiên sử dụng hiệu quả, tối ưu hóa các nguồn lực tại chỗ nhằm tăng hiệu quả mục tiêu tạo việc làm, nâng cao chất lượng việc làm và phát triển việc làm bền vững trong các chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương trong vùng.
Thứ tư, gắn đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Phát triển kinh tế số là xu hướng không thể đảo ngược. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở vùng đồng bằng sông Hồng cần theo hướng tiệm cận với xu hướng chung của nền kinh tế thế giới, tăng trưởng kinh tế giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng; từng bước ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn kết chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học – công nghệ, coi đó là yếu tố quyết định để tăng tiềm lực và sức mạnh của vùng, tạo lợi thế cạnh tranh, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.
Thứ năm, khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc ban hành chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cao trong tất cả các ngành, lĩnh vực.Việc ban hành chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải dựa trên thực tiễn nguồn nhân lực hiện có ở từng địa phương(đặc biệt là sau khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp theo Nghị quyết số 74/NQ-CP ngày 07/4/2025 của Chính phủ) và dự báo nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực trong giai đoạn tới của địa phương, của cả nước và các quốc gia trên thế giới. Từ đó có kế hoạch điều chỉnh các chính sách thu hút, tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp nhằm hạn chế tình trạng dịch chuyển nguồn nhân lực từ vùng này sang vùng khác. Đặc biệt, cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ sở đào tạo trong và mở rộng liên kết với cơ sở đào tạo nước ngoài, nhất là các cơ sở đào tạo thuộc hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường đại học uy tín ở nước ngoài để thực hiện đa dạng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhằm làm “đầu tàu” trong vạch định chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Thứ sáu, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/6/2019 của Chính phủ về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2025 để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện chính sách xã hội hóa”. Công tác xã hội hóa giáo dục cần chú trọng hơn nữa trong việc tạo mối liên kết giữa gia đình – nhà trường – doanh nghiệp để giảm bớt tình trạng lãng phí nguồn lực trong xã hội, sinh viên ra trường có việc làm đúng chuyên ngành đào tạo, doanh nghiệp không mất nhiều thời gian và chi phí để đào tạo lại nguồn nguồn nhân lực theo nhu cầu của doanh nghiệp. Đồng thời, vùng đồng bằng sông Hồng cần đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa, thu hút ngày càng nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước, giải quyết việc làm cho người lao động nhằm hạn chế tình trạng xuất cư sang các vùng lân cận.
Thứ bảy, cần coi trọng việc tạo lập các cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trong vùng đồng bằng sông Hồng. Việc đổi mới chính sách tuyển dụng, bố trí sử dụng nguồn nhân lực cần phải được triển khai theo hướng công khai, công tâm, khách quan, chính xác, dựa trên cơ sở phẩm chất và năng lực thực chất. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo, quản lý cần mạnh dạn sử dụng nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao; lôi cuốn họ nỗ lực thực hiện những kiến thức, chuyên môn đã được tích lũy, được đào tạo thông qua những chính sách sử dụng hợp lý. Bên cạnh đó, cần tạo sự đột phá về đãi ngộ, tôn vinh nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện chính sách tiền lương linh hoạt theo tiêu chí tài năng và hiệu quả đóng góp; tạo môi trường làm việc thuận lợi và cơ hội thăng tiến để tạo động lực, kích thích, khuyến khích người lao động sáng tạo và hiệu quả; bảo đảm đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc, nghiên cứu cho những nhà khoa học, những tài năng trẻ; thường xuyên tôn vinh nhân tài đi kèm cơ chế khuyến khích về lợi ích vật chất đối với những người có cống hiến mang lại nhiều lợi ích cho xã hội.
4. Kết luận
Hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò đặc biệt quan trọng, thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế dưới tác động của nền công nghiệp 4.0. Do đó, tất cả các vùng trong cả nước đều quan tâm xây dựng chiến lược, kế hoạch để đào tạo, bồi dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực hiện tại và cho giai đoạn tiếp theo. Vùng đồng bằng sông Hồng có nhiều thế mạnh về nông nghiệp, thủy sản, du lịch và vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Tuy nhiên, giáo dục, trình độ lao động qua đào tạo vùng đồng bằng sông Hồng vẫn chưa bảo đảm yêu cầu trong phát triển kinh tế. Vì vậy, mục tiêu đặt ra cấp thiết cần tập trung xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nhằm phát triển cả số lượng lẫn chất lượng nguồn nhân lực; đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa nhằm thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước, giải quyết việc làm cho người lao động ngay tại địa phương.
Chú thích:
1. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/827302/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-theo-tinh-than-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx
2. Giải pháp nâng cao chất lượng cao theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.https://tapchitaichinh.vn/giai-phap-nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-vung-dong-bang-song-hong.html
3, 4. Vùng đồng bằng sông Hồng: Phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập. https://congthuong.vn/vung-dong-bang-song-hong-phat-trien-nhan-luc-chat-luong-cao-dap-ung-yeu-cau-hoi-nhap-248300.html
5. Hơn 44% số lượng trường đại học của cả nước nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng. https://giaoduc.net.vn/hon-44-so-luong-truong-dai-hoc-cua-ca-nuoc-nam-o-vung-dong-bang-song-hong-post239502.gd.
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2019). Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/6/2019 về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2025.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II.H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
4. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 04/5/2024 về việc phê duyệt quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
5. Một số kết quả cải cách hành chính nhà nước ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/12/13/mot-so-ket-qua-cai-cach-hanh-chinh-nha-nuoc-o-cac-tinh-vung-dong-bang-song-hong/
6. Phát triển nhanh, bền vững vùng đồng bằng sông Hồng là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị. https://www.quanlynhanuoc.vn/2022/11/29/tao-buoc-chuyen-bien-moi-co-tinh-dot-pha-trong-phat-trien-vung-dong-bang-song-hong/