ThS. Triệu Phương Anh
Học viện Hành chính và Quản trị công
ThS. Nguyễn Trung Thành
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Tham nhũng từ lâu đã trở thành một trong những thách thức nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, làm xói mòn niềm tin của Nhân dân vào bộ máy nhà nước, gây tổn hại đến hiệu lực, hiệu quả quản lý và điều hành của chính quyền các cấp. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã xác định phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và lâu dài. Việc ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế pháp lý, tạo cơ sở để kiểm soát quyền lực, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ. Tuy nhiên, quá trình triển khai Luật còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, do đó, việc nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết mà còn là yếu tố then chốt để xây dựng một nền hành chính phục vụ, liêm chính, hiện đại. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ mới.
Từ khóa: Luật Phòng, chống tham nhũng; liêm chính; minh bạch; nâng cao hiệu quả; kiểm soát quyền lực; bộ máy nhà nước.
1. Đặt vấn đề
Tham nhũng là một trong những thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Nó không chỉ gây thất thoát tài sản quốc gia, làm suy yếu lòng tin của Nhân dân vào Đảng và Nhà nước mà còn bóp méo môi trường kinh doanh, cản trở đầu tư và làm xói mòn các giá trị đạo đức xã hội. Nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước xác định phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài được thể hiện nhất quán qua các văn kiện Đại hội Đảng, các nghị quyết của trung ương và các văn bản quy phạm pháp luật.
2. Cơ sở lý luận
Luật Phòng, chống tham nhũng được Quốc hội ban hành lần đầu vào năm 2005, sau khi kế thừa từ Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998. Luật này đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2012 để phù hợp với tình hình thực tiễn, sau quá trình thực hiện, Quốc hội tiếp tục ban hành thay thế bằng Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2019). Sự ra đời và hoàn thiện của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thể hiện sự quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong cuộc chiến chống lại hành vi tham nhũng – một vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển bền vững của đất nước. Lu ật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã kế thừa những quy định của các luật trước; đồng thời, bổ sung nhiều quy định mới, chặt chẽ phù hợp hơn với thực tiễn và các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng.
Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 định nghĩa tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Các hành vi tham nhũng cụ thể được liệt kê, bao gồm: tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Phòng, chống tham nhũng là tổng thể các biện pháp, chính sách và hoạt động nhằm ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng; đồng thời, xây dựng môi trường minh bạch, liêm chính, không tạo điều kiện cho tham nhũng phát sinh và phát triển. Công tác phòng, chống tham nhũng bao gồm cả phòng ngừa (xây dựng thể chế, công khai, minh bạch, kiểm soát xung đột lợi ích, kê khai tài sản, đạo đức công vụ), phát hiện (thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, giám sát của Nhân dân và báo chí) và xử lý (xử lý hành chính, kỷ luật, hình sự).
Khung pháp lý về phòng, chống tham nhũng là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình phòng, chống tham nhũng. Ở Việt Nam, khung pháp lý này được hình thành từ Hiến pháp, các đạo luật, như: Luật Phòng, chống tham nhũng, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Tiếp công dân, Luật Tố cáo, cùng với các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành. Đặc biệt, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã có nhiều điểm mới quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho công tác phòng, chống tham nhũng, như: mở rộng phạm vi điều chỉnh ra khu vực ngoài nhà nước đối với một số hành vi; quy định chặt chẽ hơn về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; tăng cường vai trò của xã hội, báo chí trong phòng, chống tham nhũng; quy định rõ về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng và đặc biệt là quy định về việc thu hồi tài sản tham nhũng.
Kể từ khi Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 có hiệu lực, công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Cụ thể:
Một là, công tác hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã tạo hành lang pháp lý tương đối đầy đủ và chặt chẽ hơn cho công tác phòng, chống tham nhũng. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật được ban hành kịp thời, từng bước cụ thể hóa các quy định của Luật. Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã ban hành các văn bản để cụ thể hóa Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, trong đó đáng chú ý là Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 về kiểm soát tài sản, thu nhập; Thông tư số 01/2021/TT-TTCPngày 03/11//2021 về hướng dẫn kê khai tài sản; các quy định về công khai, minh bạch trong tổ chức bộ máy, quản lý tài chính công… Đến nay, 100% các bộ, ngành và địa phương đã xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng theo năm. Nhiều địa phương, như: thành phố Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Đà Nẵng… đã có những mô hình sáng tạo, phù hợp với thực tiễn địa phương1. Cùng với đó, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực ngoài nhà nước đối với một số hành vi tham nhũng là một bước tiến quan trọng, thể hiện sự quyết tâm phòng, chống tham nhũng toàn diện hơn.
Hai là, tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ. Các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đã được đẩy mạnh thực hiện ở nhiều lĩnh vực; đặc biệt là trong quản lý tài chính, ngân sách, đất đai, đầu tư công, quy hoạch, xây dựng, bổ nhiệm cán bộ, điều này đã góp phần hạn chế một số kẽ hở để tham nhũng phát sinh. Đồng thời, hàng trăm cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước đã công bố thông tin quy hoạch, tài chính, ngân sách, đấu thầu, tuyển dụng. Việc chuyển đổi số trong quản lý nhà nước được đẩy mạnh, giúp minh bạch hóa quy trình xử lý thủ tục hành chính, một số địa phương đã triển khai hiệu quả dịch vụ công mức độ 3, 4, góp phần giảm tình trạng “xin – cho”, nhũng nhiễu.
Ba là, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đã chủ động hơn trong việc phát hiện các sai phạm, dấu hiệu tham nhũng thông qua các cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên đề, đột xuất và định kỳ. Năm 2023, toàn ngành Thanh tra đã thực hiện 6.259 cuộc thanh tra hành chính và 174.274 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua đó phát hiện vi phạm về kinh tế số tiền hơn 70.000 tỷ đồng và 7.000 ha đất; kiến nghị xử lý kỷ luật hàng nghìn tổ chức, cá nhân có vi phạm2. Công tác kiểm toán nhà nước cũng phát hiện, kiến nghị xử lý hàng trăm nghìn tỷ đồng mỗi năm, tập trung vào lĩnh vực đầu tư công, quản lý tài sản công và tài chính công.
Bốn là, công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng nghiêm trọng tiến hành chặt chẽ, bài bản. Trong giai đoạn 2020 – 2024, nhiều vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng đã được đưa ra xét xử công khai, nghiêm minh. Nhiều cán bộ cao cấp, trong đó có cả ủy viên trung ương, tướng lĩnh, lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước lớn bị xử lý theo pháp luật3. Ví dụ: vụ án liên quan đến Công ty Việt Á; vụ án trong ngành Y tế thời kỳ dịch Covid-19; vụ án tại Tập đoàn FLC, Tân Hoàng Minh; các vụ liên quan đến cán bộ quản lý đất đai tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội…4. Việc điều tra, xét xử các vụ án tham nhũng đã khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong công cuộc “đốt lò” không có vùng cấm, không có ngoại lệ.
Năm là, chú trọng công tác kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập. Trong năm 2023, có hơn 540.000 bản kê khai tài sản, thu nhập được thực hiện. Việc xác minh được thực hiện ở 106 cơ quan, đơn vị với 9.638 người thuộc diện xác minh5. Tuy chưa đạt mức kỳ vọng, nhưng so với giai đoạn trước, việc xác minh tài sản đã có bước tiến về số lượng và phạm vi triển khai. Đặc biệt, tập trung kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế, như:
Thứ nhất, tham nhũng vẫn còn xảy ra ở nhiều ngành, lĩnh vực, địa phương với tính chất ngày càng tinh vi, phức tạp, có sự móc nối giữa cán bộ, công chức với doanh nghiệp, tổ chức bên ngoài gây thiệt hại lớn, bức xúc trong dư luận xã hội. Tuy đã có nhiều quy định về phòng ngừa nhưng việc thực hiện chưa đồng bộ, triệt để, một số quy định còn mang tính hình thức, chưa đi vào chiều sâu, chưa phát huy hết tác dụng. Đơn cử như việc kiểm soát xung đột lợi ích, kiểm soát tài sản, thu nhập còn nhiều bất cập, chưa thực sự phát huy hiệu quả trong việc ngăn chặn tham nhũng.
Thứ hai, việc kê khai tài sản, thu nhập vẫn còn hình thức, chưa phản ánh đúng thực chất, dù số lượng kê khai lớn (540.000 bản/năm) nhưng xác minh mới thực hiện với dưới 2% số đối tượng. Chỉ có 12 trường hợp bị xử lý do kê khai không trung thực – con số quá thấp so với rủi ro thực tế6. Công tác xác minh tài sản, thu nhập còn gặp nhiều khó khăn do thiếu cơ chế xác minh hiệu quả, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan và đặc biệt là thiếu cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản, thu nhập; đồng thời, việc chứng minh nguồn gốc tài sản bất hợp pháp còn rất khó khăn.
Thứ ba, việc thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng hiện nay vẫn còn thấp so với số tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát, số tiền và tài sản thực tế thu hồi được vẫn chưa tương xứng với thiệt hại do tham nhũng gây ra. Điều này do nhiều nguyên nhân, như: tài sản bị tẩu tán, che giấu, chuyển dịch ra nước ngoài hoặc do khó khăn trong việc định giá tài sản. Mặt khác, cơ chế bảo vệ người tố cáo, cơ chế khuyến khích báo chí và Nhân dân tham gia phòng, chống tham nhũng vẫn còn bất cập, khiến họ còn e ngại khi tố giác, phản ánh. Việc bảo vệ người tố cáo tham nhũng còn hình thức chưa có cơ chế bảo đảm thực chất quyền lợi và an toàn pháp lý cho người tố giác7.
Thứ tư, Luật Phòng, chống tham nhũng đã quy định về trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng nhưng việc xử lý trách nhiệm này chưa thực sự nghiêm minh, chưa tạo được sức răn đe cần thiết. Vì thế “Chế tài xử lý trách nhiệm chính trị chưa đủ mạnh, chưa mang tính răn đe8.
Thứ năm, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã mở rộng sang khu vực ngoài nhà nước nhưng đến nay chưa có cơ chế rõ ràng về kiểm soát hoạt động nội bộ trong doanh nghiệp tư nhân, tổ chức xã hội – nghề nghiệp. Một số vụ án lớn tại doanh nghiệp ngoài công lập cho thấy mức độ rủi ro ngày càng cao, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư, đấu thầu, chuyển nhượng cổ phần có yếu tố nhà nước.
Thứ sáu, một bộ phận cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng còn thiếu kinh nghiệm, chuyên môn nghiệp vụ hoặc chưa thực sự dũng cảm, kiên quyết trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, vẫn còn tâm lý “né tránh, sợ trách nhiệm”, tình trạng “không làm gì để không sai” xuất hiện trong một bộ phận cán bộ quản lý. Điều này khiến tiến độ giải quyết công việc bị chậm trễ, ảnh hưởng hiệu quả phục vụ Nhân dân và doanh nghiệp.
3. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp
Để thực hiện có hiệu quả Luật Phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay, cần có sự đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Theo đó, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật, nghị định, thông tư có liên quan để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và hiệu quả của hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Đặc biệt là các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập, xử lý tài sản không giải trình được nguồn gốc, kiểm soát xung đột lợi ích, trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức. Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng, bao gồm cả tài sản ở nước ngoài, tài sản bị tẩu tán, che giấu. Đồng thời, cần có cơ chế pháp lý rõ ràng cho việc phong tỏa, kê biên, tịch thu tài sản ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố.
Quy định cụ thể hơn về phạm vi, hình thức, thời điểm công khai thông tin trong các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin để công khai thông tin một cách rộng rãi, dễ tiếp cận và có thể kiểm tra, giám sát. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật để kiểm soát và phòng, chống tham nhũng trong khu vực doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp có liên quan đến vốn nhà nước, các dự án đầu tư lớn.
Hai là, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tham nhũng. Cần công khai, minh bạch hơn nữa trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quản lý tài chính, ngân sách, đầu tư công, mua sắm công, bổ nhiệm cán bộ, cấp phép, cấp giấy chứng nhận… Đẩy mạnh việc công bố thông tin trên cổng thông tin điện tử, ứng dụng công nghệ số. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kê khai, công khai và xác minh tài sản, thu nhập. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản, thu nhập để phục vụ công tác kiểm soát. Nghiên cứu áp dụng các biện pháp kiểm soát tài sản, thu nhập theo hướng chặt chẽ, hiệu quả hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế. Xây dựng và thực hiện các quy định cụ thể về việc kiểm soát xung đột lợi ích đối với người có chức vụ, quyền hạn, đặc biệt là trong các lĩnh vực nhạy cảm, như: cấp phép, đấu thầu, đấu giá, quản lý tài chính, ngân sách.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, như: đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đầu tư, xây dựng, ngân hàng, tài chính… nhằm loại bỏ các kẽ hở, các quy định chồng chéo, không rõ ràng.
Tiếp tục cắt giảm thủ tục hành chính rườm rà, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, tạo môi trường làm việc minh bạch, giảm thiểu sự tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ với người dân. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Xây dựng văn hóa liêm chính trong bộ máy nhà nước. Quy định rõ ràng về trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, đặc biệt là người đứng đầu.
Ba là, tăng cường công tác phát hiện và xử lý tham nhũng. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán cần chủ động hơn nữa trong việc xây dựng kế hoạch, lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, các vụ việc có dấu hiệu vi phạm. Tăng cường thanh tra, kiểm tra đột xuất, theo chuyên đề.
Các cơ quan tư pháp cần phối hợp chặt chẽ, đồng bộ để đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các vụ án lớn, phức tạp, được dư luận quan tâm. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Cần áp dụng đồng bộ các biện pháp từ phong tỏa, kê biên, tạm giữ tài sản ngay từ giai đoạn điều tra, đến việc bán đấu giá, xử lý tài sản để thu hồi cho Nhà nước.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc truy tìm, thu hồi tài sản tham nhũng bị tẩu tán ra nước ngoài. Xây dựng cơ chế bảo vệ người tố cáo tham nhũng một cách hiệu quả, bảo đảm an toàn cho họ và gia đình. Có chính sách khen thưởng, khuyến khích xứng đáng đối với những người có công trong việc phát hiện, tố giác tham nhũng. Tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng điều tra, phân tích tài chính, công nghệ thông tin cho cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng. Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại để phục vụ công tác.
Bốn là, phát huy vai trò của xã hội, báo chí và tăng cường hợp tác quốc tế. Tăng cường cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên thực hiện tốt hơn vai trò giám sát, phản biện xã hội đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, các cơ quan báo chí, truyền thông cần nâng cao trách nhiệm, tính chuyên nghiệp trong việc đưa tin, tránh thông tin sai lệch, gây hoang mang dư luận. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế về phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là Công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng. Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương trong việc chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật, tương trợ tư pháp, truy bắt tội phạm tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của người đứng đầu. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác phòng, chống tham nhũng. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về phòng, chống tham nhũng, coi đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, quan trọng. Mặt khác, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương phải chịu trách nhiệm cao nhất về công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi mình phụ trách. Cần xử lý nghiêm minh, kịp thời những người đứng đầu buông lỏng lãnh đạo, quản lý, để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, đơn vị mình. Đồng thời, chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ để tránh tình trạng cục bộ, khép kín, tạo điều kiện cho tham nhũng phát sinh.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, nói đi đôi với làm, gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Chính phủ (2024). Báo cáo số 653/BC-CP ngày 20/12/2024 về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (2023). Báo cáo chuyên đề về xử lý cán bộ tham nhũng.
2. Bộ Chính trị (2019). Chỉ thị số 27/CT-TW ngày 10/01/2019 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người tố cáo, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng.
3. Chính phủ (2020). Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
4. Quốc hội (2018). Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
5. Thanh tra Chính phủ (2023). Báo cáo tổng hợp công tác thanh tra, phòng chống tham nhũng năm 2023.
6. Tổ chức Minh bạch Quốc tế – Transparency International (2023). Chỉ số cảm nhận tham nhũng CPI toàn cầu.
7. Kiểm toán Nhà nước (2023). Báo cáo kết quả kiểm toán ngân sách nhà nước năm 2022 – 2023.
8. Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong giai đoạn hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/10/26/giai-phap-nang-cao-hieu-qua-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-trong-giai-doan-hien-nay/
9. Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đáp ứng yêu cầu đổi mới, sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/05/26/phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-dap-ung-yeu-cau-doi-moi-sap-xep-tinh-gon-bo-may-nha-nuoc-hien-nay/
10. UNODC (2022). United Nations Convention against Corruption – Implementation Review.
11. OECD (2021). Integrity Review and Anti-Corruption Frameworks: Country Comparisons.