Giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

TS. Hoàng Thị Ngọc Minh
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Là “kiến trúc sư “vĩ đại và người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng Đảng ta thành một tổ chức cách mạng tiên phong sáng suốt, kiên cường của toàn thể dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Người và Đảng, Nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và từng bước hiện thực hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh với nhiều diễn biến phức tạp hiện nay, việc quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố then chốt để bảo đảm sự ổn định và phát triển đất nước bền vững. Bài viết phân tích những luận điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.

Từ khóa: Vai trò, lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. Đặt vấn đề

Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của một chính đảng cách mạng tiên phong luôn được xem là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Đặc biệt, từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930, vận mệnh dân tộc đã bước sang một trang sử mới đầy tự hào. Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là tổ chức chính trị lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn định hướng con đường phát triển cho đất nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là một hệ thống lý luận chặt chẽ mà còn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động thực tiễn. Người đã khẳng định, cách mạng “trước hết phải có đảng cách mệnh”1 và “Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”2. Luận điểm này không chỉ là sự kế thừa sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin mà còn là sự tổng kết sâu sắc kinh nghiệm dựng nước và giữ nước trong lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trước khi có Đảng. Thực tiễn đã chứng minh, trước năm 1930, dù có nhiều phong trào yêu nước sôi nổi nhưng đều sớm thất bại do thiếu một đường lối đúng đắn và một tổ chức lãnh đạo đủ sức mạnh để dẫn dắt.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, với những biến động phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, đặc biệt là sự chống phá tinh vi của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, việc giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một yêu cầu khách quan, mang tính sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thậm chí, ngay trong nội bộ Đảng, một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng đang đặt ra những thách thức nghiêm trọng, đòi hỏi Đảng phải không ngừng tự chỉnh đốn, tự đổi mới để duy trì sự trong sạch, vững mạnh và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu. Do đó, việc nghiên cứu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng, từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm củng cố và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay là một nhiệm vụ cấp thiết mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đây không chỉ là nền tảng vững chắc cho sự ổn định chính trị mà còn là động lực then chốt bảo đảm sự thắng lợi cho công cuộc đổi mới đất nước.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh với tầm nhìn chiến lược và sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp truyền thống dân tộc, đã đưa ra những luận điểm căn cốt về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Người khẳng định, cách mạng là sự nghiệp vĩ đại của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, để quần chúng nhân dân phát huy được sức mạnh nội tại của mình, họ cần được giác ngộ về mục tiêu cách mạng, được tổ chức chặt chẽ và được lãnh đạo bởi một đường lối đúng đắn.

Lịch sử dân tộc Việt Nam trước khi Đảng ra đời là minh chứng rõ nét cho luận điểm này. Nhiều phong trào yêu nước và các tổ chức chống thực dân Pháp, từ Văn Thân, Cần Vương đến Việt Nam Quốc dân Đảng đều thất bại mặc dù có tinh thần đấu tranh anh dũng. Nguyên nhân sâu xa của những thất bại này là do các phong trào còn bị giới hạn bởi ý thức hệ phong kiến hoặc tư sản, tiểu tư sản đã lỗi thời. Chưa có sự phân tích khoa học về tình hình kinh tế – xã hội, về các giai cấp cách mạng, đặc biệt là đặc trưng riêng có của giai cấp công nhân và nông dân Việt Nam cũng như mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Điều này cản trở việc hình thành một chiến lược cách mạng toàn diện và hiệu quả.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin đã phân tích thấu đáo tình hình giai cấp và kinh tế – xã hội trong nước, nhận diện rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Người đã kết luận, sự ra đời của một đảng kiểu mới, một đảng Mác – Lênin ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Đảng đó phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, lãnh đạo toàn bộ tiến trình cách mạng. Luận điểm này được Người đúc kết trong tác phẩm kinh điển “Đường kách mệnh”: Cách mạng “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”3.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phát triển lý luận về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam một cách đặc sắc, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Khác với sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân ở các nước châu Âu, Người khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố: chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước4. Đây là một sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phản ánh tính chất đặc thù của một dân tộc nơi tinh thần yêu nước luôn là động lực, yếu tố nội sinh mạnh mẽ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng muốn thắng lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo”5. Do đó, Người nỗ lực không ngừng để thành lập Đảng cách mạng chân chính, đảm đương nhiệm vụ lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam cao cả đó. Sự kiện này được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, khẳng định “giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”6. Vai trò lãnh đạo của Đảng là xuyên suốt, không bị ngắt quãng mặc dù trong lịch sử Đảng đã phải đối mặt với nhiều thăng trầm, kể cả những giai đoạn bị khủng bố ác liệt hay phải tuyên bố giải tán công khai. Sự kiên định trong việc giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng cho thấy bản lĩnh và sự tin cậy tuyệt đối của Nhân dân vào Đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản không chỉ là một điều kiện mà là yếu tố tối thượng, quyết định toàn bộ thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Người đã chỉ rõ một cách minh triết và đầy tính định hướng: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định hướng phương châm cho đúng. Cách mạng là cuộc đấu tranh gian khổ, lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải có tổ chức chặt chẽ; chí khí kiên quyết”7. Luận điểm này của Người không chỉ khẳng định vai trò tiên phong của Đảng trong việc vạch ra đường lối chiến lược mà còn nhấn mạnh nhiệm vụ cốt yếu của Đảng trong việc tổ chức, giáo dục và hun đúc ý chí chiến đấu cho quần chúng nhân dân.

Đảng với tư cách là bộ tham mưu tối cao, có sứ mệnh tập hợp và chuyển hóa sức mạnh tiềm tàng của nhân dân thành lực lượng vật chất hùng hậu, có khả năng đánh đổ mọi thế lực phản động, giành lấy và bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây là một nguyên lý sống còn, bảo đảm tính thống nhất về ý chí và hành động của toàn dân tộc dưới lá cờ của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên định khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, một giai cấp có sứ mệnh lịch sử dẫn dắt toàn bộ tiến trình cách mạng8. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời, Đảng còn có năng lực vượt trội trong việc đoàn kết, “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp khác, từ nông dân, trí thức đến các thành phần yêu nước cùng đứng lên làm cách mạng. Người đã khái quát một cách cô đọng và đầy tính chiến đấu: Đảng “là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”9.

Người yêu cầu Đảng phải không ngừng rèn luyện để trở thành “đội tiên phong dũng cảm và đội tham mưu sáng suốt”10. Sự “dũng cảm” thể hiện ở tinh thần không lùi bước trước khó khăn, dám đối mặt và vượt qua mọi thách thức; sự “sáng suốt” là khả năng thấu suốt quy luật vận động của xã hội, đề ra đường lối đúng đắn và linh hoạt trong mọi tình huống. trong mọi hoàn cảnh, phải “tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”11, “trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Nhân dân, với cách mạng, với Đảng”12. Đây là một nguyên tắc tối thượng trong đạo đức cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, xác lập một ranh giới rõ ràng: ngoài lợi ích của giai cấp, của Nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có bất kỳ lợi ích riêng nào khác. Mục tiêu cao cả ấy được Người cụ thể hóa: “Tiến lên xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập, dân chủ và giàu mạnh”13 và “làm bạn với rất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”14. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hành trình cách mạng của Đảng.

Vai trò lãnh đạo tất yếu và không thể thay thế của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tiễn lịch sử kiểm nghiệm và chứng minh hùng hồn, không có một tổ chức chính trị nào khác trong lịch sử có thể đảm đương và hoàn thành. Trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhờ sự xác định rõ ràng nội dung và cụ thể hóa mục tiêu về độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã dẫn dắt dân tộc ta vượt qua những thử thách khó khăn nhất và đạt được những thành tựu vĩ đại có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi căn bản diện mạo đất nước.

Cuối thế kỷ XIX, khi ách đô hộ của thực dân Pháp đẩy dân tộc Việt Nam vào thảm cảnh nô lệ, đấu tranh giành độc lập dân tộc đã trở thành vấn đề có tính chất sống còn đối với vận mệnh và sự phát triển của đất nước. Nắm vững tư tưởng độc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng sự lãnh đạo tài tình, Đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam tiến hành thành công hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân và đế quốc.

Trong kháng chiến chống Pháp, quân và dân ta đã nhất tề đứng lên với tinh thần bất khuất: “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”15. Tinh thần ấy đã được Đảng hun đúc thành ý chí sắt đá, khiến toàn dân tộc chỉ có một lòng quyết không làm nô lệ; chỉ có một ý quyết không chịu mất nước và một mục đích quyết kháng chiến để tranh cho được độc lập và thống nhất.

Dưới sự tổ chức, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách khắc nghiệt, giành được thắng lợi vang dội mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ đã mang đến ký kết Hiệp định Giơnevơ về kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương (21/7/1954). Đây là minh chứng hùng hồn cho bản lĩnh và trí tuệ dưới dự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiếp nối chiến công đó, trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, quân và dân ta tiếp tục nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ với khẩu hiệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”16. Đây không chỉ là một lời hiệu triệu mà còn là kim chỉ nam cho ý chí chiến đấu của toàn dân tộc. Thực hiện lời căn dặn thiêng liêng của Người trước lúc đi xa: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”17, Đảng đã vững vàng định hướng, củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của Nhân dân ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo một cách thiên tài: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”18. Thấm nhuần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã vượt lên mọi gian khổ, hy sinh, từng bước hiện thực hóa khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Sau năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống đế quốc kết thúc thắng lợi, Việt Nam lại phải đối mặt với những thách thức mới. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân và dân ta đã tiến hành cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, đồng thời, thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả, giúp đỡ nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot. Năm 1979, quân và dân ta lại tiếp tục cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo kiên quyết của Đảng, cách mạng Việt Nam đã vượt qua mọi cam go, thử thách để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã ký Lệnh số 29 Tổng động viên trong cả nước. Tuy quyết tâm cao độ đánh trả mọi cuộc tiến công của kẻ thù, nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn thể hiện rõ lập trường nhân văn, khát vọng hòa bình mãnh liệt, mong muốn giải quyết xung đột, bất đồng để kiến tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc, tích cực gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đây là biểu hiện cụ thể của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Có thể khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển là một tất yếu lịch sử, đáp ứng nhu cầu khách quan của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc hoàn toàn trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân. Ngay từ khi được thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện được vai trò lãnh đạo cách mạng; luôn là ngọn cờ dẫn đường lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Mặc dù trong quá trình hoạt động, Đảng đã phải trải qua những bước thăng trầm, những cam go, thử thách và cả những sai lầm nhưng vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng chưa khi nào bị lu mờ, ngắt quãng. Đảng luôn khẳng định được vị trí tối cao, không thể thay thế của mình trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sở dĩ Đảng Cộng sản Việt Nam hiên ngang trên vũ đài chính trị, vượt qua mọi “phong ba bão táp” là vì luôn xác định đúng đắn mục tiêu, vạch đúng đường lối và tìm được phương pháp cách mạng cách mạng phù hợp. Mục tiêu của Đảng là nguyện vọng của dân tộc, phù hợp với mong muốn của Nhân dân tiến bộ trên thế giới. Đồng thời, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn có ý thức tự đổi mới, tự chỉnh đốn để tự hoàn thiện và không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu.

Thực tiễn hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng minh vai trò không thể thay thế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Từ cuộc kháng chiến chống Pháp với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, đến quyết tâm “không có gì quý hơn độc lập tự do”, Đảng đã đưa dân tộc Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất.

Sau năm 1975, Đảng tiếp tục lãnh đạo Nhân dân bảo vệ biên giới và tiến hành công cuộc đổi mới, đưa đất nước hội nhập và phát triển. Những thành tựu này là minh chứng sống động cho tính đúng đắn của đường lối lãnh đạo của Đảng và sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.

3. Một số giải pháp tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tư tưởng vững chắc của Đảng.

Hiện nay, cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng đang diễn ra hết sức gay gắt, phức tạp. Các thế lực thù địch không ngừng sử dụng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, bôi nhọ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đồng thời kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Để giữ vững trận địa tư tưởng, Đảng phải chủ động, kiên quyết trong công tác giáo dục lý luận chính trị.

Không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt kiến thức mà cần phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thực sự nhận thức sâu sắc bản chất, âm mưu và thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng trong phương pháp giáo dục, chuyển từ hình thức sang thực chất, từ lý thuyết trừu tượng sang liên hệ chặt chẽ với thực tiễn sinh động của đất nước.

Cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức và biện pháp tuyên truyền, giáo dục, từ các kênh thông tin chính thống đến mạng xã hội, để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác hiệu quả, kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch. Đây không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách mà là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên, phải trở thành những chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng, giữ vững niềm tin và định hướng cho xã hội.

Hai là, thường xuyên và nghiêm túc thực hiện công tác tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh mà sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn”19. Quan điểm này phải trở thành kim chỉ nam cho công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay. Quyền lực của Đảng bắt nguồn từ Nhân dân, do Nhân dân ủy thác; do đó, Đảng phải không ngừng tự kiểm tra, tự thanh lọc để bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là đội tiền phong của giai cấp công nhân và toàn dân tộc.

Trong bối cảnh chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có ý nghĩa sống còn. Cần đặc biệt chú trọng xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ vững vàng về chính trị, tinh thông về chuyên môn mà còn phải thực sự là tấm gương về đạo đức, lối sống, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói đi đôi với làm.

Mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên định lý tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng và lợi ích của Tổ quốc, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ chiến lược, có tầm nhìn, bản lĩnh và đủ năng lực để gánh vác những trọng trách lịch sử là yếu tố quyết định thành công của Đại hội XIV và sự phát triển của đất nước trong những thập kỷ tới.

Ba là, phát huy tối đa vai trò kiểm tra, giám sát trong công tác xây dựng Đảng và tăng cường kiểm soát quyền lực để phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Kiểm tra, giám sát là một trong những phương thức lãnh đạo cốt yếu của Đảng, một bộ phận cấu thành của công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng của công tác này là để “biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết”20. Việc tăng cường kiểm tra, giám sát giúp Đảng nắm bắt thực tiễn, đánh giá đúng cán bộ, kịp thời chấn chỉnh những sai sót, khuyết điểm, từ đó nâng cao hiệu quả lãnh đạo và giữ vững niềm tin của Nhân dân.

Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, nguồn lực phát triển ngày càng dồi dào, nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực càng lớn, đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ và niềm tin của Nhân dân vào Đảng. Do đó, cần tăng cường kiểm soát quyền lực chặt chẽ từ bên trong Đảng và từ phía Nhân dân; không để quyền lực bị lạm dụng, bị tha hóa. Mọi hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực phải được phát hiện, xử lý nghiêm minh, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ, kể cả đối với cán bộ cấp cao. Đây là một cuộc chiến cam go, nhưng Đảng phải kiên quyết tiến hành để củng cố sức mạnh nội tại và giữ vững vị thế lãnh đạo.

Bốn là, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, đặc biệt là năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh toàn diện.

Năng lực lãnh đạo của Đảng không phải là một hằng số bất biến mà phải không ngừng được củng cố và phát triển, đáp ứng yêu cầu từng giai đoạn cách mạng. Trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi Đảng phải có năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị vượt trội, đặc biệt trong việc hoạch định và triển khai các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0.

Để làm được điều đó, cần tiếp tục tinh giản bộ máy của Đảng và Nhà nước một cách khoa học, hiệu quả, kiên quyết loại bỏ những bộ phận cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả, những quy trình gây cản trở sự phát triển. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước theo hướng hiện đại, công khai, minh bạch, liêm chính, kiến tạo và phục vụ. Xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, nơi quyền lực được kiểm soát chặt chẽ, trách nhiệm giải trình được đề cao. Việc xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh toàn diện, từ trung ương đến cơ sở, là nền tảng để Đảng thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo của mọi quá trình phát triển, bảo đảm các chủ trương, đường lối của Đảng được quán triệt và thực hiện thông suốt.

Năm là, tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận, tổng kết sâu sắc thực tiễn để kịp thời giải đáp những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển đất nước, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng.

Lý luận là kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận. Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với những vấn đề chưa có tiền lệ, đòi hỏi Đảng phải tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn một cách khoa học và khách quan.

Công tác nghiên cứu lý luận phải đi trước một bước, có khả năng dự báo, đề xuất các giải pháp chiến lược cho những vấn đề vướng mắc của thực tiễn, từ đó cung cấp cơ sở khoa học vững chắc cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng tại Đại hội XIV và các kỳ đại hội tiếp theo. Điều này đòi hỏi Đảng phải phát huy trí tuệ tập thể, khuyến khích tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, thu hút các nhà khoa học, chuyên gia hàng đầu tham gia vào công tác tổng kết, nghiên cứu lý luận. Chỉ khi lý luận được cập nhật, phát triển liên tục, Đảng mới có thể dẫn dắt dân tộc vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới.

4. Kết luận

Nhìn lại chặng đường lịch sử đầy gian nan nhưng cũng vô cùng vinh quang của cách mạng Việt Nam, vai trò không thể phủ nhận và ý nghĩa quyết định của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện rõ. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử được giao phó: lãnh đạo cả dân tộc giành độc lập, thống nhất đất nước và từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong bối cảnh phát triển mới với những cơ hội và thách thức đan xen, việc giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành mệnh lệnh của lịch sử và là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Điều này đòi hỏi Đảng phải luôn kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; không ngừng đổi mới tư duy lý luận; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trên mọi phương diện.

Việc học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Tư tưởng của Người không chỉ cung cấp những nguyên tắc cơ bản mà còn là phương pháp luận khoa học để giải quyết các vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, việc phòng chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng cần được thực hiện quyết liệt, triệt để, nhằm duy trì sự trong sạch và vững mạnh của Đảng, củng cố niềm tin của Nhân dân.

Chỉ khi Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, kiên định lý tưởng và mục tiêu đã chọn, không ngừng gắn bó mật thiết với nNhân dân, lắng nghe và phục vụ Nhân dân, Đảng mới có thể tiếp tục giữ vững vai trò là đội tiên phong lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa, vững bước trên con đường đã chọn. Đây chính là yếu tố bảo đảm cho sự trường tồn và phát triển hưng thịnh của dân tộc Việt Nam trong kỷ phát triển mới21.

Chú thích:
1, 2, 3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 289, 289, 289.
4, 15, 16. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật. tr. 707, 709, 131.
5, 7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật. tr. 274, 274.
6, 13, 17, 18. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật. tr. 406, 251, 498, 511.
8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật. tr. 107
9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật. tr. 14.
10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật. tr. 608.
11. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật. tr. 50.
12, 14, 19, 20. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật. tr. 595, 256, 301, 327.
21. Bài viết kế thừa kết quả nghiên cứu khoa học (mã số: 2025.TĐHHN.04.02).
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Hữu Nghĩa (2016). Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong tình hình mới. Tạp chí Lý luận chính trị, số tháng 12/2016.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị Quốc gia.
3. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên) (1997). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia.
4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2009). Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng ta. H. NXB Chính trị – Hành chính.
5. Mạch Quang Thắng (2010). Hồ Chí Minh – Con người của sự sống. H. NXB Chính trị quốc gia.