ThS. Võ Văn Chỉ
Học viện Chính trị khu vực IV
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết khái quát tình hình tôn giáo, dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay và nhận diện các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để gây chia rẽ, kích động, xuyên tạc. Từ thực tiễn lãnh đạo hiệu quả của Đảng trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc tại địa phương, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng và chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.
Từ khóa: Nền tảng tư tưởng của Đảng; tôn giáo; dân tộc; diễn biến hòa bình; đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
1. Đặt vấn đề
Đại hội XIII của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm: “đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”1; trong đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nội dung then chốt. Nhiệm vụ này càng trở nên cấp bách trong bối cảnh các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, tôn giáo, dân tộc… để xuyên tạc, kích động, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng bằng sông Cửu Long là địa bàn có tầm quan trọng chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh; đồng thời cũng là nơi tập trung nhiều tôn giáo, dân tộc đan xen gắn bó chặt chẽ với nhau. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long vì vậy mang ý nghĩa đặc biệt trong việc giữ vững ổn định chính trị tư tưởng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn giàu tính đặc thù này.
2. Khái quát tình hình tôn giáo, dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất cực Nam của Tổ quốc, hiện gồm 5 tỉnh, thành phố: Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Cà Mau và thành phố Cần Thơ2. Theo thống kê, toàn vùng có trên 17 triệu dân với sự hiện diện của 44 dân tộc cùng sinh sống; trong đó, người Kinh chiếm hơn 92%, Khmer 6,6%, Hoa 0,87% và Chăm 0,08%3. Tôn giáo ở đồng bằng sông Cửu Long cũng thể hiện rõ tính đa dạng, toàn vùng hiện có 13 tôn giáo được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, với hàng chục tổ chức hệ phái đang hoạt động như: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Islam, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Minh Sư, Cơ Đốc Phục Lâm,… có 4.611 cơ sở thờ tự, 47.334 chức sắc, chức việc và gần 5,9 triệu tín đồ, chiếm khoảng 33,6% dân số4. Các tôn giáo trong vùng gắn liền với đặc điểm dân tộc: người Khmer theo Phật giáo Nam Tông; người Chăm theo Islam; người Hoa chủ yếu theo Phật giáo, Công giáo hoặc Tin Lành; người Kinh theo nhiều tôn giáo khác nhau, trong đó phổ biến là Phật giáo Bắc Tông, Công giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo. Sự đan xen giữa tôn giáo và dân tộc trở thành đặc điểm nổi bật của đồng bằng sông Cửu Long, mỗi vấn đề tôn giáo thường chứa đựng yếu tố dân tộc và ngược lại. Đây vừa là lợi thế trong việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết, vừa là thách thức đối với công tác quản lý nhà nước, lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo.
Tình hình tôn giáo, dân tộc nhìn chung ổn định, đồng bào các dân tộc, tôn giáo đoàn kết, giữ gìn bản sắc văn hóa và tích cực đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội. Nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng, đáp ứng; nhiều cơ sở tôn giáo được xây dựng, trùng tu; đội ngũ chức sắc, chức việc được tạo điều kiện hoạt động đúng pháp luật5. Phần lớn tín đồ là người lao động chăm chỉ, sống “tốt đời, đẹp đạo”, tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thành quả đó là kết quả của chính sách đúng đắn, nhất quán của Đảng, Nhà nước về công tác dân tộc và tôn giáo, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tạo nền tảng vững chắc cho ổn định xã hội.
Tuy nhiên, đồng bằng sông Cửu Long vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, với đặc điểm giáp Campuchia, có đông đồng bào Khmer, Chăm sinh sống, vùng Tây Nam Bộ từng là địa bàn trọng điểm bị các thế lực thù địch lợi dụng trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Một số vấn đề, như: chênh lệch phát triển vùng dân tộc thiểu số, mâu thuẫn nội bộ trong tôn giáo, tranh chấp đất đai liên quan đến cơ sở thờ tự,… nếu không được xử lý kịp thời, dễ bị kích động, gây bất ổn. Báo cáo nghiên cứu đánh giá: tình hình nhìn chung ổn định nhưng “vẫn còn những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn an ninh, trật tự xã hội”6.
Nhận thức rõ vị trí chiến lược của đồng bằng sông Cửu Long, nơi đan xen giữa nhiều tôn giáo và dân tộc thiểu số cùng chung sống nên các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Ngày nay, các thế lực phản động tiếp tục thủ đoạn này với hình thức tinh vi hơn, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm suy yếu niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước, từ đó phá hoại nền tảng tư tưởng và sự thống nhất xã hội. Đáng lo ngại hơn, không gian mạng đã trở thành công cụ nguy hiểm mà các thế lực phản động triệt để khai thác. Chúng sử dụng mạng xã hội, lập các kênh truyền thông bằng tiếng Khmer, tiếng Chăm, liên kết với đài phát thanh nước ngoài như RFA, VOA để phát tán thông tin xuyên tạc. Khi đất nước gặp khó khăn như thiên tai, dịch bệnh chúng tung tin sai lệch: “Nhà nước bỏ mặc dân”, “chính quyền yếu kém để dân đói khổ”7… Những thông tin này nếu không được xử lý, phản bác kịp thời sẽ gây hoang mang trong dư luận xã hội, làm xói mòn niềm tin trong quần chúng nhân dân.
Thực tế cho thấy, dân tộc, tôn giáo là vấn đề nhạy cảm, dễ bị lợi dụng nếu thiếu cảnh giác. Vì vậy, công tác nhận diện, phản bác và chủ động đấu tranh với các luận điệu sai trái, thù địch cần được đặt lên hàng đầu trong chiến lược bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Giữ vững “trận địa tư tưởng” tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết về lý luận, mà còn là bảo đảm căn bản cho ổn định chính trị – xã hội và sự phát triển bền vững của vùng trong giai đoạn hiện nay.
3. Thực trạng công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tại vùng đồng bằng sông Cửu Long
Trong nhiều thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc, tôn giáo, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng, tạo tiền đề vững chắc để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới.
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống chính sách dân tộc, tôn giáo tiến bộ, phù hợp thực tiễn vùng. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác dân tộc và Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo được cụ thể hóa thành các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, y tế, giáo dục, ưu tiên vùng đồng bào Khmer, Hoa, Chăm. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo vệ và thực thi hiệu quả: các hoạt động đăng ký sinh hoạt tôn giáo, xây dựng cơ sở thờ tự, phong chức sắc… diễn ra thuận lợi, đúng quy định. Các bất cập trong sinh hoạt tôn giáo trái pháp luật dần được khắc phục, thay vào đó là môi trường tín ngưỡng hài hòa, ổn định.
Thứ hai, các cấp ủy Đảng ở đồng bằng sông Cửu Long đã phát huy hiệu quả vai trò của hệ thống chính trị cơ sở, huy động sức mạnh tổng hợp trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Các địa phương chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, tôn giáo; nhiều chức sắc tiêu biểu được tham gia Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân dân, đóng góp vào việc hoạch định và giám sát chính sách. Đội ngũ cán bộ Khmer, Hoa từng bước trưởng thành, đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo chủ chốt, như: Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh ủy. Các tổ chức chính trị – xã hội cùng Mặt trận Tổ quốc triển khai nhiều mô hình đoàn kết lương – giáo, tổ chức lễ hội văn hóa, như: Ok Om Bok, Sen Dolta, Ramadan, Ngày khai đạo, Hội yến Diêu trì cung… kết nối cộng đồng, lan tỏa tinh thần gắn bó giữa đồng bào có đạo và không có đạo.
Thứ ba, chính sách phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc, tôn giáo được triển khai đồng bộ. Các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, nông thôn mới, phát triển bền vững được ưu tiên tại vùng có đông đồng bào dân tộc, tôn giáo… Kết quả cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khmer giảm mạnh, còn khoảng 3,6%, giảm hơn một nửa so với giai đoạn trước8. Cơ sở hạ tầng thiết yếu,như: điện, đường, trường, trạm được đầu tư khắp các phum, sóc. Nhiều trường, lớp dạy chữ Khmer, Pali được mở; các cơ sở đào tạo, như: Trường trung cấp Phật học Nam tông Khmer, Học viện Phật giáo Nam tông Khmer được thành lập, góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết và văn hóa dân tộc.
Thứ tư, công tác bảo đảm an ninh – quốc phòng và đấu tranh với âm mưu lợi dụng tôn giáo, dân tộc được tăng cường. Lực lượng công an, quân đội phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, chức sắc tôn giáo và người có uy tín nắm chắc tình hình cơ sở, kịp thời xử lý các điểm nóng. Các địa phương chủ động tuyên truyền, vận động kết hợp với xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng tôn giáo, dân tộc để kích động, chống phá. Quân khu 9 triển khai hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng – an ninh trong giới chức sắc, nâng cao ý thức cảnh giác và trách nhiệm công dân, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Từ thực tiễn phát huy vai trò lãnh đạo của các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong công tác tôn giáo, dân tộc, có thể rút ra một số kinh nghiệm quan trọng: (1) Quán triệt sâu sắc quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là chiến lược xuyên suốt của Đảng; (2) Bảo đảm hài hòa giữa nhu cầu vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc, tôn giáo; (3) Phát huy vai trò của chức sắc, người có uy tín trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng; (4) Ccủng cố tổ chức Đảng ở cơ sở vùng dân tộc, tôn giáo; (5) Kết hợp hiệu quả giữa tuyên truyền, vận động với đấu tranh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật. Những kinh nghiệm này là cơ sở nền tảng để tiếp tục giữ vững và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay.
4. Một số giải pháp tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Trước những thách thức mới do biến động quốc tế và khu vực cũng như âm mưu chống phá ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tại đồng bằng sông Cửu Long cần được tăng cường bằng các giải pháp toàn diện, phù hợp với đặc điểm vùng có tôn giáo dân tộc đan xen.
Một là, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Các cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở phải xem đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Cần củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 35 các cấp, phát huy vai trò Ban Tuyên giáo và Dân vận, Công an, Quân sự, Sở Dân tộc và Tôn giáo. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội, như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân cần chủ động tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái từ cơ sở, củng cố niềm tin nhân dân vào Đảng. Sự phối hợp đồng bộ của các lực lượng sẽ tạo sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tại địa bàn chiến lược này.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên người dân, nhất là trong đồng bào có đạo, dân tộc thiểu số. Cần tổ chức học tập, quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị về công tác tư tưởng, tôn giáo, dân tộc. Công tác tuyên truyền cần linh hoạt theo từng đối tượng: giáo dục truyền thống cho thanh niên Khmer, Hoa; phổ biến pháp luật tín ngưỡng cho chức sắc, tín đồ; lồng ghép nội dung tuyên truyền trong sinh hoạt cộng đồng. Đồng thời, cần bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ tôn giáo, dân tộc, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, sáng tác nghệ thuật đề cao đoàn kết dân tộc, tôn giáo, xây dựng các chuyên mục truyền thông bằng tiếng dân tộc để định hướng dư luận tích cực.
Ba là, xây dựng lực lượng nòng cốt và mạng lưới cộng tác viên tại các tôn giáo, dân tộc để trực tiếp tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng. Mỗi chùa Khmer, họ đạo Công giáo, đạo Hòa Hảo, Cao Đài… cần có đảng viên, đoàn viên nòng cốt am hiểu giáo lý, có uy tín, làm cầu nối giữa Đảng với tín đồ. Các chức sắc yêu nước cần được động viên để tuyên truyền chính sách tôn giáo của Nhà nước, vạch trần luận điệu xuyên tạc. Cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, dân tộc, những người có bản lĩnh chính trị, kỹ năng vận động tốt và hiểu phong tục tín ngưỡng để xây dựng được niềm tin và chủ động xử lý các tình huống phát sinh tại cơ sở.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với bảo đảm quốc phòng – an ninh, giữ vững ổn định địa bàn. Các chương trình giảm nghèo, phát triển vùng sâu, vùng xa cần được ưu tiên tại các tỉnh có đông đồng bào dân tộc, tôn giáo… như một “vaccine” chống lại luận điệu xuyên tạc. Đồng thời, cần phát triển thế trận an ninh nhân dân, gắn với quốc phòng toàn dân; lực lượng công an, quân đội phối hợp chặt với phía Campuchia, kiểm soát chặt biên giới Tây Nam. Đặc biệt, an ninh mạng cần được tăng cường, ứng dụng công nghệ để xử lý nhanh các thông tin xuyên tạc về dân tộc, tôn giáo. Các địa phương cần phát triển kênh thông tin chính thức (kể cả bằng tiếng Khmer, Chăm, Hoa), xử lý nghiêm hành vi phát tán tài liệu chống phá, góp phần ổn định dư luận.
Năm là, tiếp tục thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, kết hợp đối thoại và hợp tác quốc tế để hóa giải các luận điệu can thiệp về “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”. Cần chủ động thông tin ra quốc tế về thành tựu trong bảo vệ quyền lợi đồng bào dân tộc, tôn giáo tại đồng bằng sông Cửu Long, tổ chức đón tiếp các đoàn quốc tế đến thăm cơ sở thờ tự, gặp gỡ chức sắc, tín đồ tại địa phương, qua đó chứng minh tính nhân văn, tiến bộ trong chính sách tôn giáo của Việt Nam.
Với những giải pháp đồng bộ, khoa học và sát với thực tiễn địa phương; khi “thế trận lòng dân” được tăng cường, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tôn giáo được bồi đắp, mọi âm mưu chia rẽ, chống phá đều sẽ bị chủ động ngăn chặn và đẩy lùi hiệu quả.
5. Kết luận
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất giàu tiềm năng, đồng thời, cũng là địa bàn có tính đặc thù cao về dân tộc và tôn giáo. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tại đây không chỉ là nhiệm vụ lý luận mà còn là yêu cầu thực tiễn cấp thiết nhằm giữ gìn khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ niềm tin của Nhân dân với Đảng. Trong bối cảnh các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chia rẽ, chống phá, toàn hệ thống chính trị và Nhân dân đồng bằng sông Cửu Long càng cần phát huy tinh thần cảnh giác, chủ động, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thâm độc. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ của các lực lượng, đặc biệt là sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, nền tảng tư tưởng của Đảng tại đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục được củng cố vững chắc, góp phần xây dựng đất nước ổn định, phát triển, giàu mạnh.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.180.
2. Đảng ủy Chính phủ (2025). Thông báo Kết luận của Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ tại cuộc họp về định hướng điều chỉnh phân vùng và điều chỉnh quy hoạch kinh tế – xã hội, Hà Nội.
3. Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê (2025). Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019. H. NXB Thống kê, tr. 135 – 136.
4. Giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý nhà nước về tôn giáo ở đồng bằng sông Cửu Long. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/09/17/giai-phap-hoan-thien-to-chuc-bo-may-va-nhan-su-quan-ly-nha-nuoc-ve-ton-giao-o-dong-bang-song-cuu-long/
5, 6. Nguyễn Khắc Đức (2024). Vấn đề dân tộc – tôn giáo vùng dân tộc thiểu số ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Lý luận chính trị, số 553 (3/2024).
7, 8. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. https://lyluanchinhtri.vn/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dau-tranh-chong-cac-luan-dieu-xuyen-tac-gay-chia-re-khoi-dai-doan-ket-toan-dan-toc-6658.html.