Vai trò của Nhà nước trong an sinh xã hội theo từng hình thái kinh tế – xã hội

Nguyễn Ngân Hà
Trường Đại học Dược Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – An sinh xã hội là yếu tố quan trọng nhằm bảo đảm đời sống con người, giảm bất bình đẳng và thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế – xã hội. Vai trò của Nhà nước trong thực hiện chính sách an sinh xã hội không cố định mà thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, phụ thuộc vào bản chất của nền kinh tế, quan hệ sản xuất và hệ tư tưởng thống trị của mỗi thời kỳ. Theo triết học Mác – Lênin, hình thái kinh tế – xã hội là yếu tố quyết định đến sự tồn tại của các thiết chế chính trị. Vì vậy, việc nghiên cứu sự thay đổi vai trò của Nhà nước trong an sinh xã hội qua các hình thái xã hội giúp làm rõ bản chất của Nhà nước và rút ra những bài học hữu ích trong quản lý xã hội hiện nay.

Từ khóa: Nhà nước, an sinh xã hội, hình thái kinh tế – xã hội, vai trò, công bằng xã hội.

1. Đặt vấn đề

An sinh xã hội là một trong những trụ cột cơ bản bảo đảm sự ổn định chính trị, công bằng xã hội và phát triển bền vững trong mọi hình thái tổ chức xã hội loài người. Tuy nhiên, vai trò của Nhà nước trong việc kiến tạo, điều phối và thực thi các chính sách an sinh xã hội không mang tính bất biến, mà luôn vận động, biến đổi phù hợp với từng hình thái kinh tế – xã hội cụ thể. Từ góc nhìn của chủ nghĩa duy vật lịch sử, Nhà nước không phải là một thực thể siêu hình đứng ngoài xã hội mà là thiết chế chính trị – pháp lý, phản ánh một cách trực tiếp và sâu sắc cấu trúc kinh tế cùng những mối quan hệ sản xuất đặc trưng của mỗi thời kỳ lịch sử.

Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, sự chuyển dịch từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái khác đã dẫn đến những thay đổi căn bản về vai trò, phạm vi và cơ chế can thiệp của Nhà nước đối với hệ thống an sinh xã hội. Bài viết sẽ đi sâu phân tích sự biến đổi của vai trò Nhà nước trong lĩnh vực an sinh xã hội qua các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau nhằm làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa Nhà nước, cơ sở hạ tầng kinh tế và sự phát triển của các thiết chế bảo vệ con người trong xã hội.

2. Vai trò của Nhà nước trong an sinh xã hội theo từng hình thái kinh tế – xã hội

2.1. Xã hội công xã nguyên thủy – hình thức an sinh mang tính tự nhiên.

Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, công xã nguyên thủy được xem là hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên, nơi các quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội còn mang tính chất tự phát, tự nhiên và bình đẳng. Trong giai đoạn này, chưa tồn tại Nhà nước với tư cách là một thiết chế chính trị – pháp lý độc lập. Như Ph.Ănghen đã chỉ ra “trong xã hội nguyên thủy, khi chế độ sở hữu chung lên ngôi, chưa có sự tích lũy tư bản hay phân hóa giai cấp và các quyết định được đưa ra bởi hội đồng thị tộc hoặc bộ lạc theo nguyên tắc đồng thuận”1. Chính trong bối cảnh đó, các hoạt động mang tính “an sinh xã hội” dù chưa được định danh như trong các xã hội hiện đại lại được thể hiện một cách tự nhiên và nội tại nhất. Việc chăm sóc người già, trẻ em, người bệnh hay người khuyết tật là kết quả của mối quan hệ cộng đồng gắn bó và ý thức trách nhiệm chung vì sự sống còn của cả tập thể.

Thêm vào đó, Claude Lévi-Strauss, nhà nhân học nổi tiếng trong các công trình nghiên cứu về cấu trúc xã hội nguyên thủy, cũng cho thấy rằng các xã hội thị tộc duy trì được sự ổn định và bền vững chính là nhờ tính chất cộng sinh và hệ thống quy tắc ứng xử mang tính truyền thống, không cần đến thiết chế cưỡng chế hay quản lý hành chính đặc biệt nào2.

Từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, có thể thấy rằng hình thức an sinh trong xã hội công xã nguyên thủy là sự phản ánh đúng đắn của trình độ phát triển lực lượng sản xuất còn thấp và quan hệ sản xuất chưa có sự phân hóa giai cấp. Khi chưa tồn tại tư hữu về tư liệu sản xuất, cũng chưa có đối kháng lợi ích giai cấp, vai trò của Nhà nước với tư cách là công cụ của giai cấp thống trị vẫn chưa xuất hiện, và do đó, an sinh xã hội mang tính tự nhiên, tự quản, phi Nhà nước.

2.2. Xã hội chiếm hữu nô lệ – nhà nước ra đời nhưng chưa đóng vai trò an sinh xã hội.

Sự chuyển biến từ xã hội công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, đặc biệt là về mặt tổ chức chính trị và cấu trúc giai cấp. Theo Ph.Ănghen, Nhà nước ra đời không phải như một biểu hiện của sự đồng thuận xã hội chung mà là “sản phẩm của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được”3, là công cụ của giai cấp thống trị nhằm duy trì sự chiếm hữu.

C.Mác vạch rõ bản chất bóc lột của chế độ nô lệ, khi nô lệ bị coi như một “công cụ biết nói” – một phần của tư liệu sản xuất chứ không phải là con người có quyền lợi xã hội4. Trong hoàn cảnh đó, khái niệm “an sinh xã hội” không hề tồn tại theo nghĩa hiện đại. Những người lao động, chủ yếu là nô lệ không được tiếp cận bất kỳ hình thức bảo trợ xã hội nào. Khi mất sức lao động, họ bị thải loại, thậm chí bị giết bỏ như những công cụ không còn giá trị sử dụng.

Từ góc độ triết học lịch sử, điều này thể hiện rõ luận điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: kiến trúc thượng tầng (trong đó có Nhà nước) phản ánh và phục vụ cho cơ sở hạ tầng kinh tế. Vì vậy, khi quan hệ sản xuất dựa trên sự bóc lột tuyệt đối như trong chế độ nô lệ thì không thể kỳ vọng Nhà nước sẽ thực hiện chức năng phúc lợi xã hội. Trái lại, Nhà nước đóng vai trò duy trì trật tự xã hội theo hướng có lợi cho giai cấp chủ nô – những người sở hữu tư liệu sản xuất và lực lượng lao động

2.3. Xã hội phong kiến – hình thức an sinh gắn với trách nhiệm của tầng lớp thống trị.

Trong xã hội phong kiến, quan hệ sản xuất phân hóa rõ rệt giữa giai cấp thống trị – địa chủ, quý tộc nắm tư liệu sản xuất và nông dân lao động bị phụ thuộc, không có quyền sở hữu ruộng đất. Nhà nước phong kiến tồn tại như một công cụ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, duy trì trật tự xã hội theo mô hình chính trị – pháp lý mang tính chuyên chế. Dù vậy, để duy trì tính chính danh và ổn định xã hội, Nhà nước phong kiến cũng ban hành một số chính sách mang tính chất “an sinh xã hội sơ khai”, chủ yếu là cứu tế, phân phát lương thực, miễn thuế hoặc tổ chức cứu trợ khi thiên tai, mất mùa.

Tuy nhiên, các chính sách này thường mang tính chất từ thiện, dựa vào lòng nhân đạo của vua chúa hoặc giáo lý tôn giáo, chứ không xuất phát từ quyền lợi pháp lý của người dân. Theo quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử, điều này phản ánh trình độ kinh tế – xã hội thấp và kết cấu giai cấp bất bình đẳng. Do đó, hệ thống “an sinh” dưới thời phong kiến không mang tính phổ quát hay công bằng xã hội, mà chỉ là công cụ duy trì ổn định và củng cố quyền lực của giai cấp thống trị.

2.4. Xã hội tư bản chủ nghĩa – an sinh xã hội trở thành công cụ duy trì ổn định.

Chủ nghĩa tư bản, với nền tảng là chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và cơ chế thị trường tự do, đã làm thay đổi sâu sắc cấu trúc xã hội và vai trò của Nhà nước. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, Nhà nước không trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất như trong các hình thái kinh tế – xã hội trước đó mà theo C.Mác, Nhà nước tư sản là “uỷ ban quản lý chung cho toàn bộ giai cấp tư sản”5, hoạt động chủ yếu để quản lý và duy trì sự vận hành của nền kinh tế thị trường.

Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này là sự hình thành của giai cấp tư sản (chủ sở hữu các phương tiện sản xuất) và giai cấp vô sản (lao động tay chân, không sở hữu tài sản). Đây là hai giai cấp chủ yếu đối kháng trong xã hội tư bản. Sự phân chia này dẫn đến tình trạng bất bình đẳng, đặc biệt là trong vấn đề an sinh xã hội, khi mà người lao động không được hưởng bất kỳ chính sách phúc lợi nào từ Nhà nước trong giai đoạn đầu.

Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, Nhà nước chủ yếu phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, tập trung bảo vệ tài sản và duy trì lợi nhuận, trong khi người lao động không được tiếp cận bất kỳ hình thức an sinh xã hội nào. Họ phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt, không có bảo hiểm, trợ cấp hay chế độ hưu trí. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX, trước sức ép của phong trào công nhân và đấu tranh giai cấp, các quốc gia tư bản phát triển bắt đầu thiết lập hệ thống chính sách an sinh nhằm xoa dịu mâu thuẫn xã hội và ổn định thể chế.

Tiêu biểu là hệ thống bảo hiểm xã hội đầu tiên do Bismarck khởi xướng tại Đức (1883-1889), bao gồm các chính sách về bảo hiểm y tế, tai nạn lao động và hưu trí. Từ đó, các hình thức an sinh, như: bảo hiểm xã hội, trợ cấp cho người nghèo, người khuyết tật, phúc lợi giáo dục và y tế dần được triển khai. Dù vẫn tồn tại giới hạn và phân biệt giai cấp, nhưng đây là bước tiến quan trọng trong việc Nhà nước tư bản từng bước thừa nhận vai trò của mình trong bảo vệ quyền lợi tối thiểu cho người lao động và các nhóm yếu thế trong xã hội.

Từ góc nhìn chủ nghĩa Mác, hệ thống an sinh xã hội trong xã hội tư bản được thiết lập nhằm duy trì ổn định xã hội và giảm mâu thuẫn giai cấp, nhưng thực chất vẫn phục vụ lợi ích giai cấp tư sản. An sinh chỉ được đảm bảo cho người có việc làm, thu nhập ổn định, còn người thất nghiệp hoặc yếu thế chỉ được hỗ trợ hạn chế và mang tính phân tầng.

2.5. Cộng sản chủ nghĩa – nhà nước giữ vai trò trung tâm trong an sinh xã hội.

Trong hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa, Nhà nước giữ vai trò trung tâm trong an sinh xã hội, đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động, nhằm xóa bỏ bất công, bóc lột và hiện thực hóa lý tưởng công bằng theo tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin: xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất”, tiến tới một xã hội không còn áp bức giai cấp, nơi “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”6.

C.Mác nhấn mạnh rằng: “Trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản, quyền lực Nhà nước cần phải bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động và từng bước xây dựng các điều kiện cho sự phát triển toàn diện của con người”7. V.I.Lênin cũng khẳng định vai trò này khi cho rằng, Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là công cụ tổ chức, điều tiết đời sống xã hội nhằm phục vụ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động8.

An sinh xã hội trong xã hội chủ nghĩa là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc công bằng xã hội và phân phối theo lao động. Nhà nước can thiệp sâu vào các lĩnh vực như y tế, giáo dục, bảo hiểm, việc làm… nhằm phục vụ Nhân dân, bảo đảm quyền lợi toàn dân chứ không bảo vệ lợi ích riêng biệt. V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng: “Nhà nước vô sản là tổ chức của giai cấp bị bóc lột để đè bẹp kẻ bóc lột và tiến tới sự tiêu vong của chính Nhà nước khi xã hội không còn giai cấp”9. Điều này cho thấy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nhà nước không chỉ giữ vai trò quản lý mà còn là lực lượng chủ động tổ chức hệ thống an sinh xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi thiết yếu của Nhân dân.

Trong thế kỷ XX, các quốc gia xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam đều cho thấy vai trò trung tâm của Nhà nước trong xây dựng và vận hành hệ thống an sinh xã hội. Mô hình phúc lợi Xô Viết cung cấp y tế, giáo dục miễn phí và trợ cấp như một phần của quyền công dân.

Tại Việt Nam, giai đoạn bao cấp cũng áp dụng nhiều chính sách tương tự như tem phiếu, phân phối thuốc men, miễn học phí và viện phí cho cán bộ, công nhân viên. Vai trò của Nhà nước không chỉ là hỗ trợ khi khó khăn mà còn nhằm bảo đảm công bằng xã hội và phát triển con người. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và toàn cầu hóa, Việt Nam đang đối mặt với các thách thức như mất cân đối quỹ an sinh, trục lợi chính sách, và áp lực tài chính đòi hỏi cần có sự cải cách thể chế và quản trị an sinh.

3. Thực trạng an sinh xã hội và những thách thức đặt ra cho việc thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay

3.1. Những kết quả đạt được.

Những năm qua, hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần đảm bảo đời sống người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Thứ nhất, phủ rộng bảo hiểm y tế và mở rộng bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Theo số liệu từ Bộ Y tế, đến cuối năm 2023, hơn 93,3 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 93,35% dân số, đưa Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về độ bao phủ bảo hiểm y tế10. Đây là kết quả của quá trình phổ cập bảo hiểm y tế toàn dân, phù hợp với tinh thần của Luật Bảo hiểm y tế năm 2014 và các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. 

Thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Tính đến hết tháng 12/2024, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đạt khoảng 20,1 triệu người, chiếm 42,7% lực lượng lao động trong độ tuổi (trong đó: bảo hiểm xã hội bắt buộc đạt khoảng 17,8 triệu người, bảo hiểm xã hội tự nguyện đạt hơn 2,3 triệu người), tăng trên 4 triệu người so với năm 2020. Tính đến hết tháng 11, số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp ước đạt 15,8 triệu người, chiếm khoảng 33% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng trên 2,5 triệu người so với năm 202011. Đây là tín hiệu tốt cho thấy nhận thức ngày càng tăng về quyền lợi an sinh lâu dài và sự tiến bộ trong mục tiêu phổ cập bảo hiểm xã hội toàn dân.

Thứ hai, chính sách trợ cấp xã hội hiệu quả, hỗ trợ đối tượng yếu thế.

Theo báo cáo năm 2023 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (MOLISA), hơn 3,3 triệu người thuộc nhóm dễ tổn thương, gồm: người cao tuổi không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, người khuyết tật nặng đang được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên12.

Việc triển khai Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội là nâng mức chuẩn trợ cấp lên 360.000 đồng/tháng từ tháng 7/2021, dù mức trợ cấp vẫn còn thấp nhưng là bước tiến cải thiện phúc lợi cơ bản. Đến năm 2024, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 76/2024/NĐ-CP ngày 01/7/2024 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, theo đó, Nghị định điều chỉnh mức chuẩn trợ giúp xã hội từ 360.000 đồng/tháng lên 500.000 đồng/tháng, tăng 38,9%, đáp ứng bằng một phần ba chuẩn nghèo khu vực nông thôn và bằng một phần tư chuẩn nghèo khu vực thành thị giai đoạn 2021 – 2025, thể hiện cam kết của Nhà nước trong nâng cao mức sống tối thiểu và an sinh cơ bản cho nhóm yếu thế.

Thứ ba, vai trò “lưới an toàn” trong khủng hoảng Covid-19.

Trong giai đoạn đại dịch Covid-19, Chính phủ đã ban hành gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng theo Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 và các chính sách đi kèm, cụ thể là Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 nhằm hỗ trợ người lao động, hộ kinh doanh, người mất việc làm, người bán vé số, tiểu thương… Hàng chục triệu người đã được thụ hưởng, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực về kinh tế – xã hội trong đại dịch13.

Thứ tư, giảm tỷ lệ thất nghiệp và phát triển hệ thống dịch vụ việc làm.

Việt Nam đã nỗ lực duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp. Theo Tổng cục Thống kê, đến quý I/2024, tỷ lệ thất nghiệp cả nước duy trì ở mức 2,2%, riêng khu vực thành thị là 2,96%, thấp hơn nhiều quốc gia trong khu vực ASEAN14.

Hiện nay, trên cả nước có nhiều trung tâm dịch vụ việc làm trực thuộc Sở Nội vụ và Lao động các tỉnh, thành phố, hoạt động theo mô hình công lập15. Các trung tâm này thực hiện: tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho người lao động; kết nối người lao động với doanh nghiệp thông qua sàn giao dịch việc làm trực tiếp hoặc online; tổ chức đào tạo ngắn hạn, nâng cao kỹ năng, đặc biệt cho thanh niên, lao động thất nghiệp, người chuyển nghề.

Thứ năm, xóa đói, giảm nghèo có nhiều chuyển biến tích cực.

Trong Báo cáo Chính phủ trình Quốc hội tháng 5/2024, tỷ lệ hộ nghèo cả nước theo chuẩn nghèo đa chiều đã giảm còn 2,93% vào cuối năm 2023, giảm 0,43 điểm phần trăm so với năm 2022. Đặc biệt, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 17,8% xuống còn 15,1%, cho thấy hiệu quả của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 202516. Chương trình này đang được triển khai với tổng ngân sách gần 75.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương đóng góp khoảng 48.000 tỷ đồng, còn lại là ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác17, tập trung vào phát triển sinh kế, hỗ trợ giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, tăng cường năng lực cho cán bộ giảm nghèo cấp xã.

Đặc biệt, vào tháng 10 hằng năm, các địa phương trên cả nước đều triển khai Tháng cao điểm “Vì người nghèo”, với sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị – xã hội và cộng đồng doanh nghiệp. Trong khuôn khổ chương trình, từ năm 2000 đến 2023, Quỹ “Vì người nghèo” các cấp đã vận động được trên 22.000 tỷ đồng, hỗ trợ hơn 700.000 căn nhà Đại đoàn kết, hàng chục triệu lượt người nghèo và hộ nghèo trên cả nước được thụ hưởng (trong đó có cả thông qua tháng cao điểm)18.

Thứ sáu, xóa nhà tạm, nâng chất lượng nhà ở cho người nghèo.

Tính đến năm 2024, theo Bộ Xây dựng, cả nước đã xóa được trên 250.000 căn nhà tạm, nhà dột nát trong giai đoạn 2021 – 2024. Bên cạnh đó, chương trình 1.000 căn nhà tình nghĩa do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Quỹ Vì người nghèo thực hiện tại các tỉnh Tây Bắc và Tây Nguyên đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần hiện thực hóa chủ trương chăm lo nhà ở cho hộ nghèo và người có công19.

Thứ bảy, cải thiện chỉ số bình đẳng giới.

Theo Báo cáo Global Gender Gap Report 2024 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam xếp hạng 72/146 quốc gia, với mức độ bình đẳng giới đạt khoảng 71,5%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với năm trước. Trong báo cáo nhấn mạnh, khoảng cách giới trong giáo dục và y tế gần như đã bằng 0 và tỷ lệ phụ nữ giữ ghế Quốc hội (nhiệm kỳ 2021 – 2026) đạt khoảng 30,26%, đứng trong nhóm cao của khu vực20.

Ngoài ra, tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động tại Việt Nam đạt khoảng 48,6% vào năm 2024, phản ánh sự hiện diện mạnh mẽ của phụ nữ trong thị trường lao động. Chính phủ và các tổ chức xã hội đang mở rộng các chương trình hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp và đào tạo nghề cho phụ nữ nông thôn21.

 Thứ tám, chính sách cho người có công, người cao tuổi được ưu tiên.

Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (năm 2023), Việt Nam hiện có hơn 1,2 triệu người có công với cách mạng đang được hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng, bao gồm trợ cấp tài chính, chăm sóc y tế, hỗ trợ nhà ở và phát triển sinh kế. Trong năm 2023, trên 90% gia đình chính sách có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình tại địa phương22.

Đồng thời, có hơn 10 triệu người cao tuổi hưởng bảo hiểm y tế miễn phí, trong đó khoảng 1,8 triệu người trên 80 tuổi được nhận trợ cấp xã hội hằng tháng. Chương trình “Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi dựa vào cộng đồng” cũng đã được triển khai tại nhiều địa phương, tích hợp các dịch vụ y tế, dinh dưỡng, vận động và khám chữa bệnh định kỳ23.

Những kết quả đạt được khẳng định hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam đang từng bước phát triển theo hướng đa tầng, toàn diện và nhân văn, vừa đáp ứng yêu cầu ổn định đời sống dân cư, vừa bảo đảm công bằng xã hội và phát triển bền vững.

3.2. Những khó khăn, thách thức.

Mặc dù hệ thống an sinh xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong việc mở rộng độ bao phủ bảo hiểm, trợ cấp xã hội và giảm nghèo bền vững, song trước bối cảnh toàn cầu hóa, biến động kinh tế, già hóa dân số và bất bình đẳng ngày càng gia tăng, hệ thống này đang đối diện với nhiều thách thức đa chiều và mang tính dài hạn.

Thứ nhất, áp lực tài chính do già hóa dân số nhanh chóng.

Già hóa dân số là một xu thế không thể đảo ngược, đe dọa sự bền vững của hệ thống hưu trí và bảo hiểm y tế. Theo Tổng cục Thống kê (năm 2022), tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm khoảng 12% dân số và dự kiến sẽ tiếp tục tăng nhanh trong các thập kỷ tới. Dự báo đến năm 2038, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn “già hóa dân số sâu” với tỷ lệ người cao tuổi vượt 20%24. Trong khi đó, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động giảm dần, dẫn đến mất cân đối giữa số người đóng – hưởng trong các quỹ bảo hiểm. Ngân hàng Thế giới (WB) cảnh báo, nếu không có cải cách hệ thống hưu trí kịp thời, các quốc gia có tốc độ già hóa nhanh như Việt Nam sẽ đối mặt với khủng hoảng tài chính trong an sinh xã hội, nhất là khi tuổi nghỉ hưu chưa tăng tương xứng với tuổi thọ25.

Thứ hai, gia tăng bất bình đẳng thu nhập và khoảng cách tiếp cận chính sách

Toàn cầu hóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng cũng làm sâu sắc thêm bất bình đẳng thu nhập. Những người lao động trong khu vực phi chính thức chiếm khoảng 70% lực lượng lao động thường không được hưởng các chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, tạo ra khoảng trống lớn về bảo vệ an sinh.

Tính đến năm 2023, thống kê của Ngân hàng Thế giới cho thấy 76% tổng số lao động thuộc khu vực không chính thức (khoảng 1,9 triệu lao động), nhưng chỉ khoảng 5% trong số này tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện26. Nguyên nhân bao gồm: mức đóng còn cao so với thu nhập, quyền lợi chưa hấp dẫn, truyền thông chính sách còn thiếu và chưa hiệu quả.

Ba là, tác động từ biến động kinh tế và biến đổi khí hậu.

Đại dịch Covid-19 đã bộc lộ rõ sự mong manh của hệ thống an sinh xã hội, khi hàng triệu người cần hỗ trợ khẩn cấp nhưng chưa được bao phủ bởi bất kỳ hình thức bảo hiểm nào. Thêm vào đó, biến đổi khí hậu và thiên tai ngày càng gia tăng, đặc biệt trong các vùng nông nghiệp đã trực tiếp đe dọa sinh kế của người dân nghèo.

Theo ILO (năm 2020), chỉ khoảng 47% dân số toàn cầu được bảo vệ bởi ít nhất một chương trình an sinh xã hội27. Tại Việt Nam, nhiều nông dân, ngư dân và lao động phi chính thức chưa được tham gia bất kỳ cơ chế bảo hiểm nào, điều này khiến họ dễ tổn thương hơn trước những biến động.

Bốn là, bất bình đẳng tiếp cận giữa các vùng và nhóm dân cư.

Sự chênh lệch vùng, miền vẫn là một trong những rào cản lớn đối với phổ cập an sinh xã hội. Người dân vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số gặp khó khăn trong tiếp cận chính sách do rào cản ngôn ngữ, thiếu cán bộ xã hội cơ sở và hạ tầng công nghệ thông tin còn yếu.

Bên cạnh đó, lao động nhập cư tại các đô thị lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh có tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội còn thấp, chỉ đạt khoảng 30-35% do thiếu thông tin về chính sách bảo hiểm y tế, do bất ổn về hợp đồng lao động và đặc thù công việc không ổn định28.

Năm là, nguy cơ mất cân đối tài chính trong hệ thống an sinh xã hội.

Theo phân tích của AMRO dựa trên số liệu của Quỹ Bảo hiểm Việt Nam (VSS), nếu không có điều chỉnh mức đóng, mở rộng độ bao phủ hoặc tăng tuổi nghỉ hưu, quỹ hưu trí của Việt Nam có thể mất cân đối từ sau năm 203229. Đây là cảnh báo mang tính hệ thống, đòi hỏi Việt Nam phải sớm cải cách chính sách, tái cấu trúc tài chính an sinh xã hội, đồng thời áp dụng công nghệ trong quản lý để tăng hiệu quả và tính minh bạch.

4. Một số giải pháp

Để ứng phó hiệu quả với các thách thức ngày càng gia tăng trong bối cảnh kinh tế – xã hội nhiều biến động, hệ thống an sinh xã hội Việt Nam cần có các cải cách tổng thể với trọng tâm là mở rộng bao phủ, nâng cao hiệu quả, bảo đảm công bằng và tính bền vững tài chính.

Thứ nhất, cần điều chỉnh hệ thống hưu trí và chăm sóc người cao tuổi nhằm thích ứng với xu thế già hóa dân số.

Việc tăng tuổi nghỉ hưu một cách linh hoạt, phù hợp với tuổi thọ và khả năng lao động của từng ngành nghề là một giải pháp cần thiết nhằm giảm áp lực chi trả cho quỹ hưu trí. Đồng thời, Nhà nước nên khuyến khích phát triển các hình thức hưu trí bổ sung như quỹ hưu trí tự nguyện, bảo hiểm hưu trí tư nhân nhằm hỗ trợ người lao động có thêm lựa chọn tích lũy an sinh tuổi già. Bên cạnh đó, việc nhân rộng các mô hình chăm sóc dài hạn dựa vào cộng đồng sẽ giúp người cao tuổi được hỗ trợ cả về y tế, dinh dưỡng, sinh hoạt và sức khỏe tâm thần, nhất là ở nông thôn và khu vực chưa có dịch vụ chuyên biệt.

Thứ hai, cần cải cách mạnh mẽ chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện và hỗ trợ người lao động khu vực phi chính thức tham gia hệ thống an sinh.

Để thu hẹp khoảng cách an sinh và giảm bất bình đẳng thu nhập, chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cần được thiết kế theo hướng linh hoạt hơn, như cho phép người lao động đóng gián đoạn, chọn mức đóng phù hợp thu nhập thực tế, và cải thiện tính hấp dẫn của quyền lợi hưởng. Đồng thời, cần mở rộng chính sách trợ cấp đóng một phần bảo hiểm cho nhóm lao động thu nhập thấp, nông dân, tiểu thương, nhằm khuyến khích họ tham gia hệ thống. Việc đẩy mạnh truyền thông chính sách một cách dễ hiểu, gần gũi, thông qua mạng xã hội, truyền hình cộng đồng, tổ chức đoàn thể… là một công cụ quan trọng để nâng cao nhận thức về an sinh lâu dài.

Thứ ba, hệ thống an sinh cần nâng cao năng lực phản ứng với khủng hoảng kinh tế và rủi ro phi truyền thống như biến đổi khí hậu.

Một quỹ dự phòng an sinh xã hội quy mô quốc gia nên được thiết lập nhằm cung cấp hỗ trợ nhanh chóng cho người lao động bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh hoặc khủng hoảng kinh tế. Ngoài ra, cần gắn kết các chính sách an sinh xã hội với chiến lược thích ứng biến đổi khí hậu, đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm rủi ro thiên tai… Đồng thời, khuyến khích khu vực tư nhân và tổ chức phi chính phủ tham gia vào mạng lưới bảo vệ an sinh cho nhóm dễ bị tổn thương cũng sẽ làm tăng độ bao phủ và tính linh hoạt của hệ thống.

Thứ tư, cần điều chỉnh mức chuẩn trợ cấp xã hội để đảm bảo mức sống tối thiểu trong bối cảnh lạm phát.

Mức chuẩn trợ cấp hiện nay (500.000 đồng/tháng) đang dưới mức chuẩn nghèo quốc gia, không đủ bảo đảm sinh hoạt cơ bản cho người yếu thế30. Do đó, cần có cơ chế điều chỉnh định kỳ mức chuẩn trợ cấp theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và mức sống tối thiểu vùng. Ngoài ra, các gói hỗ trợ nên được tích hợp đa chiều, không chỉ bao gồm tiền mặt mà còn hỗ trợ tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, nhà ở và sinh kế, góp phần nâng cao năng lực tự vươn lên của người dân.

Thứ năm, thu hẹp bất bình đẳng tiếp cận giữa các vùng, miền và nhóm dân cư cần được xem là ưu tiên trong mở rộng an sinh xã hội.

Việc tiếp cận chính sách an sinh xã hội của người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn hạn chế do rào cản ngôn ngữ, hạ tầng và thiếu nhân lực xã hội cơ sở. Vì vậy, cần đầu tư mạnh cho hệ thống cán bộ xã hội cấp xã, đồng thời triển khai các trung tâm dịch vụ xã hội lưu động kết hợp tư vấn, truyền thông và hỗ trợ chính sách tận nơi. Song song đó, việc phát triển hạ tầng số, sử dụng nền tảng dữ liệu dân cư quốc gia để số hóa quản lý và cấp phát an sinh xã hội cũng sẽ giúp tăng tính minh bạch và hiệu quả triển khai.

Thứ sáu, bảo đảm tính bền vững tài chính là yêu cầu sống còn của hệ thống an sinh xã hội trong dài hạn.

Để tránh nguy cơ mất cân đối quỹ bảo hiểm xã hội sau năm 2035 như cảnh báo của ILO, cần tiến hành điều chỉnh mức đóng – hưởng hợp lý, mở rộng diện tham gia đóng bảo hiểm từ khu vực phi chính thức và hộ kinh doanh. Ngoài ra, cần đổi mới mô hình quản trị quỹ theo hướng hiện đại, minh bạch, ứng dụng công nghệ quản lý để giảm thất thoát và nâng cao hiệu quả đầu tư sinh lời từ quỹ bảo hiểm. Chính phủ cũng có thể nghiên cứu áp dụng mô hình “quỹ quốc gia đầu tư an toàn” như một số quốc gia OECD đang triển khai.

5. Kết luận

Co thể thấy, vai trò của Nhà nước trong an sinh xã hội phát triển theo hướng ngày càng rõ ràng, chủ động và có tổ chức hơn, từ chỗ không tồn tại, sang chức năng phục vụ giai cấp thống trị, đến việc trở thành công cụ ổn định xã hội, và cuối cùng là trung tâm điều phối phúc lợi toàn dân trong xã hội xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò chủ động trong việc thực hiện các chính sách phúc lợi nhằm bảo đảm công bằng và phát triển bền vững. Sự thay đổi này phản ánh quy luật của biện chứng lịch sử: cơ sở kinh tế thay đổi sẽ dẫn đến sự biến đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng, trong đó có vai trò to lớn của Nhà nước.

Trong bối cảnh hiện đại, đặc biệt ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Nhà nước tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong việc điều tiết và mở rộng hệ thống an sinh xã hội. Tuy nhiên, để thích ứng với những thay đổi của nền kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa, khắc phục các thách thức đặt ra đối với hệ thống an sinh xã hội không chỉ là yêu cầu cấp bách trong ngắn hạn, mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững trong dài hạn. Điều này đòi hỏi một chiến lược cải cách toàn diện, lồng ghép đa ngành và sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, khu vực tư nhân và cộng đồng trong xây dựng một hệ thống an sinh xã hội nhân văn, hiệu quả và thích ứng cao với mọi biến động của thời đại.

Chú thích:
1, 3. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Tập 21. H. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, tr. 57, 168.
2. Claude Lévi-Strauss (1966). The Savage Mind. Chicago: University of Chicago Press, tr. 36.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Toàn tập. Tập 23. H. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, tr. 86.
5, 6, 7. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, tr. 594, 595, 605 – 606.
8, 9. V.I.Lênin toàn tập (1976). Tập 33. H. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, tr. 22, 178.
10. Bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh và bền vững. https://moh.gov.vn/tin-lien-quan/-/asset_publisher/vjYyM7O9aWnX/content/bao-phu-bao-hiem-y-te-tang-nhanh-va-ben-vung
11. Năm 2024: Thị trường lao động phục hồi nhanh, mạnh mẽ. https://molisa.gov.vn/baiviet/242702
12. Hơn 90% người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội. https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/pages/kinh-te-xa-hoi.aspx?CateID=170&ItemID=22182&OtItem=date
13. Chính phủ (2020). Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.
14. Thông cáo báo chí về tình hình lao động việc làm quý I năm 2024. https://www.nso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/03/Thong-cao-bao-chi-lao-dong-Q1.2024_upweb-1.docx
15. Báo cáo tổng hợp hệ thống Trung tâm Dịch vụ việc làm công lập. https://molisa.gov.vn/baiviet/32
16. Chính phủ (2024). Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội kỳ họp thứ 7, Quốc hội (khóa XV). https://vanban.chinhphu.vn/?docid=205180&pageid=27160.
17. Những kết quả nổi bật sau 3 năm thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. https://molisa.gov.vn/baiviet/238069
18. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2023). Kết quả 20 năm vận động Quỹ “Vì người nghèo” và chương trình an sinh xã hội giai đoạn 2000 – 2023. 19. Hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát hơn 200.000 căn trên phạm vi cả nước. https://mattran.org.vn/cac-cuoc-van-dong-phong-trao-thi-dua/ho-tro-xoa-nha-tam-nha-dot-nat-hon-200000-can-tren-pham-vi-ca-nuoc-63459.html
20, 21. World Economic Forum (2024). Benchmarking gender gaps, 2024 – Global Gender Gap Report. https://www.weforum.org/publications/global-gender-gap-report-2024/in-full/benchmarking-gender-gaps-2024-2e5f5cd886/
22. Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng: kết quả và triển khai năm 2023. https://www.molisa.gov.vn/baiviet/236872
23.  Thêm hàng trăm nghìn người cao tuổi có lương hưu. https://lsvn.vn/se-co-them-hang-tram-nghin-nguoi-cao-tuoi-co-luong-huu-a153398.html
24. Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số: Xây dựng Luật Dân số theo hướng thích ứng. https://baophapluat.vn/viet-nam-buoc-vao-giai-doan-gia-hoa-dan-so-xay-dung-luat-dan-so-theo-huong-thich-ung-post521423.html
25. Vietnam: Adapting to an aging society. The World Bank. https://documents1.worldbank.org/curated/en/pdf/Vietnam-Adapting-to-an-Aging-Society.pdf
26. Phát triển mở Việt Nam (OpenDevelopment VietNam) – Bức tranh toàn cảnh về lao động và di cư tại Việt Nam. https://vietnam.opendevelopmentmekong.net/topics/a-landscape-of-vietnam-labor-and-migration
27. ILO (2021). World Social Protection Report 2020-22. More than 4 billion people still lack any social protection, ILO report finds. https://www.ilo.org/resource/news/more-4-billion-people-still-lack-any-social-protection-ilo-report-finds
28. Research of factors impressed access to health insurance of migrant workers in Ho Chi Minh City. https://stdjelm.scienceandtechnology.com.vn/index.php/stdjelm/article/view/769
29. Annual consultation report Vietnam 2024. https://amro-asia.org/wp-content/uploads/2025/03/2024-Vietnam-ACR_publication_18Feb2025_SI4.pdf
30. Quy định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025. https://vksndtc.gov.vn/tin-tong-hop/quy-dinh-ve-chuan-ngheo-da-chieu-giai-doan-2021-d8-t8919.html.