ThS. Phạm Duy Cảnh
Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – Chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng vững chắc để Đảng và Nhà nước ta nhận thức đúng đắn, toàn diện về bản chất, vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội. Từ đó, đề ra chính sách phù hợp nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa đạo và đời, giữa tự do tín ngưỡng với ổn định chính trị – xã hội. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đã góp phần bảo đảm quyền tự do tôn giáo; đồng thời, đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn giáo, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ở nước ta.
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác – Lênin; nền tảng tư tưởng; tín ngưỡng; tôn giáo.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Sự cùng tồn tại của các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn hóa Việt Nam, tuy nhiên cũng đặt ra nhiều khó khăn, phức tạp trong công tác quản lý cũng như thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Trong bối cảnh hiện nay, khi đời sống tôn giáo ở Việt Nam đang có nhiều biến chuyển sâu sắc, không chỉ gắn với nhu cầu văn hóa, tinh thần của một bộ phận nhân dân mà còn chịu ảnh hưởng từ quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự tác động của các thế lực thù địch thì yêu cầu giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tự do tín ngưỡng, tôn giáo với giữ vững ổn định chính trị – xã hội trở nên đặc biệt quan trọng. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã cung cấp cơ sở lý luận vững chắc để Đảng ta xây dựng quan điểm nhất quán: tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng; đồng thời, kiên quyết đấu tranh với mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xâm phạm an ninh quốc gia. Đây là minh chứng sinh động cho khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong công tác tôn giáo vốn nhiều thách thức và phức tạp.
2. Vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin trong giải quyết các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Chủ nghĩa Mác – Lênin, với thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học, không chỉ là kim chỉ nam cho phong trào cách mạng vô sản thế giới mà còn là nền tảng tư tưởng vững chắc cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình nhận thức và xử lý các vấn đề tôn giáo – một lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm trong đời sống xã hội. Trong xã hội Việt Nam đương đại, khi các yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng đan xen với văn hóa, truyền thống, dân tộc và cả những tác động từ toàn cầu hóa thì việc giải quyết đúng đắn các vấn đề tôn giáo trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin càng có ý nghĩa chiến lược, không chỉ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà còn góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững ổn định chính trị và phát triển bền vững đất nước.
Ngay từ khi ra đời, chủ nghĩa Mác đã nhìn nhận tôn giáo không phải như một hiện tượng thuần túy tinh thần hay thần thánh siêu hình mà là một sản phẩm xã hội cụ thể. C. Mác cho rằng, tôn giáo không thể tách rời khỏi điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người: “Tôn giáo là tiếng thở dài của sinh vật bị áp bức, là trái tim của một thế giới không có trái tim, là tinh thần của một thời đại không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”1. Ở đây, C. Mác không chỉ phê phán vai trò mê tín, an ủi, ru ngủ của tôn giáo mà còn gián tiếp nhấn mạnh rằng, việc tồn tại của tôn giáo phản ánh những nỗi đau thực sự trong đời sống xã hội mà con người chưa thể vượt qua. Quan điểm này hàm ý rằng, để tôn giáo không còn là “thuốc phiện” thì cần xóa bỏ những điều kiện xã hội sản sinh ra nó – tức là xóa bỏ áp bức, bóc lột và bất công.
Đồng ý với quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen cũng cho rằng, tôn giáo không tự nó nảy sinh trong đầu óc con người mà bắt nguồn từ những mối quan hệ kinh tế – xã hội, từ trình độ nhận thức và điều kiện sinh sống cụ thể. Trong tác phẩm Chống Đuy-rinh, ông viết: “Tôn giáo chỉ là sự phản ánh hư ảo trong đầu óc con người về những thế lực thống trị bên ngoài con người trong cuộc sống hàng ngày của họ; phản ánh những thế lực đó ở hình thức siêu nhiên”2. Như vậy, cả C. Mác và Ph.Ăngghen đều tiếp cận tôn giáo từ lập trường duy vật biện chứng, coi đó là hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, phải được nhận thức và giải quyết trong mối liên hệ với các điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể.
Phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin cho rằng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, khi xây dựng một nền tảng xã hội mới, con người cần đấu tranh chống mê tín tôn giáo nhưng đồng thời phải bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng. Ông nhấn mạnh: “Phải cực lực phản đối việc đàn áp tín ngưỡng, phải biết phân biệt một cách nghiêm khắc cuộc đấu tranh chống mê tín tôn giáo với việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng cho nhân dân”3. Lênin cũng đặc biệt nhấn mạnh việc “không thể tiêu diệt tôn giáo bằng sắc lệnh” mà phải thông qua việc nâng cao đời sống vật chất và trình độ văn hóa, nhận thức của quần chúng lao động. Do đó, người cộng sản phải vừa đấu tranh chống các biểu hiện phản tiến bộ trong tôn giáo, vừa tôn trọng và bảo vệ quyền tín ngưỡng, hướng dẫn tôn giáo theo hướng tiến bộ, đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng.
Tư tưởng nhất quán và sâu sắc đó đã được Đảng ta vận dụng linh hoạt trong từng thời kỳ cách mạng. Ngay từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, Đảng đã xác định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, cần được tôn trọng và bảo đảm” – quan điểm này tiếp tục được khẳng định và phát triển trong các văn kiện quan trọng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; đồng thời, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật”4.
Nhờ vận dụng đúng đắn tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong công tác tôn giáo. Hầu hết các tôn giáo đều được Nhà nước công nhận và tạo điều kiện hoạt động đúng pháp luật. Các chức sắc, tín đồ không chỉ yên tâm sinh hoạt tôn giáo mà còn tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tế cho thấy, Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo… đều có những đóng góp quan trọng vào các hoạt động từ thiện, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đến thực tiễn cách mạng Việt Nam, có thể thấy rõ một chân lý: giải quyết đúng đắn vấn đề tôn giáo không chỉ là bài toán chính trị – xã hội mà còn là biểu hiện của bản lĩnh tư tưởng, tầm vóc trí tuệ và lòng nhân văn cách mạng. Chủ nghĩa Mác – Lênin tiếp tục là nền tảng tư tưởng vững chắc cho Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Vận dụng lý luận Mác – Lênin trong giải quyết vấn đề tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam đã công nhận 45 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với khoảng 27 triệu tín đồ (chiếm 1/4 dân số cả nước), trong đó có trên 54.000 chức sắc, 135.500 chức việc; trên 29.600 cơ sở thờ tự tôn giáo và khoảng trên 54.000 cơ sở tín ngưỡng5… Đồng bào theo các tôn giáo luôn thấm nhuần truyền thống yêu nước, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin trong giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân.
Thực tiễn khẳng định, Việt Nam đã đạt được những kết quả nổi bật trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nguyên nhân là do sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin của Đảng trong thực hiện công tác tôn giáo. Những kết quả nổi bật là:
Thứ nhất, hoàn thiện và phát triển quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác tôn giáo trong bối cảnh đổi mới.
Ngay từ những ngày đầu sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trong bối cảnh đất nước còn gặp muôn vàn khó khăn, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân, nhất là đối với đồng bào có đạo. Ngày 03/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm: “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương – giáo đoàn kết”6. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 35/SL ngày 20/9/1945 về việc tôn trọng và không được xâm phạm chùa, lăng tẩm của tôn giáo và Sắc lệnh số 65/SL ngày 23/11/1945 về việc bảo tồn cổ di tích và giao nhiệm vụ bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam cho Đông Dương Bác cổ Học viện. Đặc biệt, năm 1955,Người ký quyết định ban hànhSắc lệnh số 234/SL ngày 14/6/1955 về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng. Sắc lệnh này nhằm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo dưới chế độ mới, được tín đồ, chức sắc các tôn giáo nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ, khẳng định: “Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân”.
Kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, trong từng giai đoạn lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm ban hành hệ thống chủ trương, chính sách và pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; đồng thời, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho các tổ chức tôn giáo hoạt động ổn định, đúng pháp luật và phù hợp với lợi ích chung của đất nước7. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”. Nhà nước đã thể chế hóa thành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho tổ chức và hoạt động của các tôn giáo, đồng bào có đạo.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả và hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước không ngừng quan tâm, từng bước hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về tôn giáo, luôn đánh giá cao và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và coi đó là nền tảng quan trọng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhiều lễ hội tôn giáo đã vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo riêng lẻ, trở thành hoạt động văn hóa chung mang tính cộng đồng, tiêu biểu, như: Lễ Phật đản của Phật giáo, Lễ Giáng sinh của Công giáo và Tin lành… Cùng với đó, nhiều cơ sở thờ tự được xây mới, trùng tu khang trang; hoạt động phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển địa bàn tu hành của chức sắc, chức việc các tôn giáo được thực hiện linh hoạt, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức tôn giáo và cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng đi vào nền nếp, được tổ chức theo đúng Hiến chương, Điều lệ của từng tổ chức tôn giáo và trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ chức sắc, chức việc và tín đồ các tôn giáo luôn thể hiện sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nghiêm túc chấp hành pháp luật, đồng thời phát huy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, gắn bó và đồng hành cùng dân tộc. Họ tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đóng góp thiết thực vào những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Hiện nay, cả nước có hàng ngàn điểm nhóm được chính quyền địa phương cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có hơn 60 điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, hơn 6.500 cá nhân được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; 16.783 người được bổ nhiệm hoặc suy cử làm chức việc. Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của chức sắc, chức việc và tín đồ các tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo đã cấp 690 quyết định xuất bản, với trên 2.400.000 bản in. Không ít kinh sách tôn giáo đã được biên dịch và xuất bản bằng tiếng Anh, tiếng Pháp cũng như các tiếng dân tộc thiểu số. Các tổ chức tôn giáo tham gia vào đời sống chính trị xã hội, như: Quốc hội (khóa XV) có 5 vị chức sắc trúng cử đại biểu; số lượng chức sắc, chức việc và tín đồ các tôn giáo tham gia Hội đồng nhân dân các cấp khá đáng kể: cấp tỉnh có 123 người (gồm 88 chức sắc, chức việc và 35 tín đồ), cấp huyện gần 500 người, cấp xã có hơn 5.600 người8.
Chính quyền các cấp luôn chú trọng tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào có đạo tích cực “đồng hành cùng dân tộc”, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo trong việc xây dựng đời sống văn hóa tại cộng đồng dân cư. Đồng thời, thường xuyên phối hợp hướng dẫn, động viên chức sắc và tín đồ tích cực tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện nhân đạo; thực hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”, hưởng ứng mạnh mẽ các phong trào thi đua yêu nước. Qua đó, không chỉ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà còn giúp các tôn giáo mở rộng uy tín, vị thế và ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội.
Việt Nam cũng luôn chủ động hợp tác và tạo điều kiện cho các tôn giáo hội nhập với quốc tế. Việt Nam là nơi tổ chức đăng cai nhiều sự kiện tôn giáo mang tầm quốc tế. Điều đó đã minh chứng cho thấy, đời sống dân chủ, sôi động và cởi mở của các tôn giáo ở Việt Nam. Đặc biệt, từ năm 2008 đến nay, Việt Nam đã 4 lần tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc. Tính riêng, Đại lễ Phật đản năm 2025 tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh, đã có hơn 80 quốc gia cùng hơn 10.000 phật tử tham dự, vượt ra ngoài phạm vi của một lễ hội tôn giáo. Không chỉ riêng Phật giáo, rất nhiều sự kiện tôn giáo đã được Nhà nước tạo điều kiện tổ chức và hỗ trợ về việc bảo đảm an ninh, duy trì trật tự, bảo đảm cho các sự kiện tôn giáo diễn ra an toàn, thân thiện, tạo dấu ấn với bạn bè quốc tế như: Hội nghị toàn thể Liên Hội đồng Giám mục châu Á lần thứ X (năm 2012), với sự tham gia của hơn 200 giám mục trên toàn thế giới; Lễ kỷ niệm 500 năm Ngày Cải chánh Giáo hội cũng được tổ chức, với sự tham gia của gần 12.000 giáo dân trong và ngoài nước (năm 2017). Với chính sách tôn giáo ngày càng cởi mở, nhiều đoàn đại biểu tôn giáo đã ra nước ngoài dự hội nghị, hội thảo và tham gia diễn đàn khu vực và quốc tế như: Đối thoại liên tín ngưỡng Á – Âu (ASEM), đối thoại liên tín ngưỡng khu vực châu Á – Thái Bình Dương…
Thứ ba, đồng bào tôn giáo tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, xây dựng đời sống văn hóa, hoạt động an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, các tôn giáo và đồng bào có đạo đã phát huy tinh thần yêu nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua tại địa phương, đóng góp nguồn lực quan trọng cùng toàn dân xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhiều mô hình vận động quần chúng mang lại hiệu quả rõ rệt, nhận được sự hưởng ứng và đồng thuận sâu rộng từ các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ. Đội ngũ chức sắc, chức việc không chỉ gương mẫu chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy ước cộng đồng mà còn tích cực tuyên truyền, vận động tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, thể thao, nâng cao đời sống tinh thần, đoàn kết, tương trợ trong lao động và sản xuất. Đồng thời, các tổ chức tôn giáo cũng chú trọng chăm lo giáo dục, thúc đẩy xây dựng nếp sống văn minh và góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, việc vận động giáo dân chấp hành pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, tham gia giữ gìn an ninh trật tự, đấu tranh phòng, chống ma túy, tội phạm, tệ nạn xã hội đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Các tôn giáo và đồng bào có đạo đã phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của tôn giáo thông qua việc tích cực tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, từ thiện, nhân đạo và an sinh xã hội. Hoạt động an sinh được triển khai phong phú trên nhiều lĩnh vực, thu hút sự tham gia của đông đảo tổ chức và cá nhân tôn giáo. Không chỉ hỗ trợ thiết thực về vật chất, các hoạt động này còn đem lại giá trị tinh thần to lớn, góp phần lan tỏa yêu thương, sẻ chia trong cộng đồng. Sự tận tâm, tôn trọng và đồng cảm của các chức sắc, tu sĩ đối với người bệnh, người nghèo không phân biệt tôn giáo, địa vị xã hội đã trở thành nguồn động viên mạnh mẽ giúp họ vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Qua đó, các tôn giáo đã góp phần giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà nước và đóng vai trò tích cực trong sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước.
Trong những năm qua, các tổ chức tôn giáo đã tích cực đóng góp nguồn lực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, với tổng kinh phí lên tới hàng nghìn tỷ đồng dành cho các hoạt động giáo dục, y tế, an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe, hoạt động từ thiện, cũng như hỗ trợ phòng, chống thiên tai và dịch bệnh. Hiện nay, trên phạm vi cả nước, các tổ chức tôn giáo đã thành lập khoảng 300 trường mầm non, 2.000 lớp học tình thương, 12 cơ sở đào tạo nghề và hơn 500 cơ sở khám, chữa bệnh từ thiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, gần 800 cơ sở bảo trợ xã hội do Phật giáo, Công giáo, Cao Đài và một số tôn giáo khác quản lý đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trên 12.000 đối tượng yếu thế, như: trẻ em mồ côi, người khuyết tật, người già neo đơn và bệnh nhân tâm thần9. Các phòng khám và cơ sở chăm sóc sức khỏe do tổ chức tôn giáo vận hành ngày càng hoạt động hiệu quả, đóng góp thiết thực vào nỗ lực chung của Nhà nước trong việc cải thiện chất lượng khám, chữa bệnh cho Nhân dân. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, các giá trị nhân văn và những phẩm chất cao quý trong giáo lý của các tôn giáo đã một lần nữa được khẳng định và lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng, góp phần củng cố tinh thần đoàn kết và hỗ trợ xã hội vượt qua khó khăn. Những hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo đã góp phần làm đa dạng việc huy động các nguồn lực xã hội; chia sẻ gánh nặng với Nhà nước và xã hội, lan tỏa tinh thần “tương thân, tương ái” trong cộng đồng.
4. Một số giải pháp vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác – Lênin trong giải quyết vấn đề tôn giáo giai đoạn hiện nay
Một là, cần đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức lý luận về tôn giáo theo tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Việc nhìn nhận tôn giáo như một hiện tượng xã hội vừa có tính lịch sử, vừa có tính khách quan cần được quán triệt sâu rộng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng. Cần phân biệt rõ giữa bản chất phản ánh hư ảo của tôn giáo và vai trò thực tiễn tích cực của nó trong một số điều kiện nhất định, như giáo dục đạo đức, cố kết cộng đồng. Do đó, đổi mới tư duy cần đi đôi với việc làm rõ vai trò xã hội của tôn giáo và sự cần thiết của đối thoại, hòa hợp.
Hai là, cần hoàn thiện hệ thống lý luận và pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến tôn giáo. Theo quan điểm của V.I. Lênin, một nhà nước xã hội chủ nghĩa cần thiết lập cơ chế pháp luật rõ ràng, minh bạch, phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Ông khẳng định: “Tự do tín ngưỡng là một quyền của con người, nhưng Nhà nước cần giữ lập trường trung lập, không thiên vị hay chống lại bất kỳ tôn giáo nào”10. Việt Nam cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật để bảo đảm tính đồng bộ, cụ thể, dễ thi hành trong thực tế, trong đó chú trọng thể chế hóa các nguyên tắc về tự do tín ngưỡng, không phân biệt đối xử trên cơ sở tôn giáo; đồng thời, xác định rõ ranh giới giữa hoạt động tôn giáo hợp pháp và hành vi lợi dụng tôn giáo để chống phá chính quyền.
Ba là, cần đầu tư bài bản cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo. Đội ngũ này cần được trang bị đầy đủ kiến thức lý luận Mác – Lênin, hiểu biết sâu sắc về giáo lý, giáo luật các tôn giáo; đồng thời, có kỹ năng vận động, đối thoại, hòa giải. Các văn kiện của Đảng đã nhiều lần nhấn mạnh đến vai trò của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo trong việc củng cố niềm tin và tạo sự đồng thuận trong Nhân dân. Đặc biệt, Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo nhấn mạnh: Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo có phẩm chất chính trị vững vàng, am hiểu tôn giáo, có uy tín, trách nhiệm. Do vậy, việc xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu, bồi dưỡng thường xuyên là vô cùng cấn thiết.
Bốn là, cần tạo cơ chế và môi trường thuận lợi để các tổ chức tôn giáo phát huy vai trò tích cực trong đời sống xã hội. Đây là biểu hiện cụ thể của việc vận dụng linh hoạt và sáng tạo tư tưởng Mác – Lênin trong điều kiện mới. V.I.Lênin từng khẳng định vai trò công tác xã hội của tôn giáo: “Chúng ta không chống lại tín ngưỡng mà chống lại những hình thức mê tín lạc hậu gây cản trở cho tiến bộ xã hội. Còn những hành vi và tổ chức tôn giáo có ích cho xã hội, chúng ta phải tạo điều kiện phát triển”11. Nhà nước cần khuyến khích các tổ chức tôn giáo tham gia vào các hoạt động xã hội, như: y tế, giáo dục, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường, chăm sóc người yếu thế… Từ đó, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước và các tổ chức tôn giáo; đồng thời, củng cố niềm tin của đồng bào có đạo vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Năm là, cần tăng cường năng lực dự báo và ứng phó với các thách thức từ quá trình toàn cầu hóa tôn giáo. Trong thời đại công nghệ số và thông tin toàn cầu, các trào lưu tôn giáo mới, phi truyền thống có thể xâm nhập nhanh chóng vào xã hội Việt Nam. Để đối phó, cần có các trung tâm nghiên cứu chuyên sâu, có tính liên ngành và kết nối quốc tế. Các trung tâm này có thể phối hợp với các cơ sở nghiên cứu chính trị – xã hội và tôn giáo để phân tích, dự báo và đưa ra các khuyến nghị chính sách phù hợp với xu hướng phát triển tôn giáo trong nước và trên thế giới. Đồng thời, cũng cần tăng cường đào tạo đội ngũ chuyên gia có trình độ cao trong nghiên cứu và dự báo tình hình tôn giáo, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống và thông tin mạng.
Sáu là, công tác giáo dục và truyền thông đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng nhận thức xã hội tích cực về tôn giáo. Các phương tiện truyền thông đại chúng cần đẩy mạnh tuyên truyền các giá trị nhân văn của tôn giáo, tôn vinh các chức sắc, tín đồ tôn giáo có nhiều đóng góp cho xã hội; đồng thời, kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây rối trật tự công cộng hoặc xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục từ phổ thông đến đại học cần lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức tôn giáo và tinh thần khoan dung vào chương trình giảng dạy nhằm hình thành thế hệ công dân có nhận thức toàn diện về tự do tín ngưỡng và trách nhiệm xã hội.
5. Kết luận
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, điều đó được thể hiện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, một trong những nguyên nhân là do Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong thực hiện công tác tôn giáo. Bên cạnh đó, việc vận dụng lý luận Mác – Lênin trong giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam đang còn một số hạn chế, vướng mắc nhất định. Để khắc phục những hạn chế hiện nay và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin vào giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam cần một hệ thống giải pháp đồng bộ, vừa mang tính chiến lược lâu dài, vừa có khả năng thích ứng linh hoạt với hoàn cảnh mới. Đó không chỉ là yêu cầu khách quan của thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà còn là thước đo năng lực tư duy lý luận và bản lĩnh chính trị của Đảng ta trong giai đoạn phát triển mới. Những giải pháp trên nếu được triển khai hiệu quả sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác tôn giáo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị – xã hội và phát huy vai trò tích cực của các tôn giáo trong sự nghiệp phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới hiện nay.
Chú thích:
1. C. Mác – Ph. Ăngghen toàn tập (1995). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 644.
2. Ph. Ăngghen toàn tập (1995). Tập 20. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, HN, tr. 208 – 209.
3. V.I. Lênin toàn tập (1995). Tập 10. H. NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 83 – 84.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 162.
5. Tôn giáo ở Việt Nam là một nguồn lực quan trọng góp phần phát triển đất nước.https://baodantoc.vn/ton-giao-o-viet-nam-la-mot-nguon-luc-quan-trong-gop-phan-phat-trien-dat-nuoc-1740814910036.htm
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 8.
7. Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo từ năm 2004 đến nay. https://btgcp.gov.vn/cong-tac-ton-giao/phap-luat-ve-tin-nguong-ton-giao-tu-nam-2004-den-nay-post2BR14kGnJ1.html
8, 9. Ban Tôn giáo Chính phủ (2022). Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam. H. NXB Tôn giáo, tr. 88 – 97; tr. 88 – 92.
10. V.I.Lênin toàn tập (1981). Tập 10. H. NXB. Tiến bộ, tr. 84.
11. V.I.Lênin toàn tập (1981). Tập 16. H. NXB. Tiến bộ, tr. 112.