ThS. Lê Thu Hường
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, thành phố Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Chất lượng đội ngũ giảng viên quyết định trực tiếp hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là trong bối cảnh đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”, cùng với tác động sâu sắc của chuyển đổi số và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ngày càng quan trọng và cấp thiết. Bài viết phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân hạn chế, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Từ khóa: Đội ngũ giảng viên, giáo dục và đào tạo;, lý luận chính trị, trường chính trị tỉnh.
1. Đặt vấn đề
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh hiện nay là nhiệm vụ cấp thiết, không chỉ để đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ cấp cơ sở vừa “hồng”, vừa “chuyên” mà còn để xây dựng lực lượng giảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, chuyên môn sâu, phương pháp giảng dạy hiện đại, gắn kết chặt chẽ lý luận với thực tiễn, thúc đẩy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ và chính quyền địa phương. Tiến hành tốt nhiệm vụ này sẽ góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa mục tiêu mà dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng xác định: “Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Sớm xây dựng chiến lược quốc gia về giáo dục theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế”1. Do đó, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh cần được nâng cao về mọi mặt, đặc biệt là phẩm chất, năng lực giảng dạy, nghiên cứu thực tiễn để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
2. Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh
Giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh là những người trực tiếp giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức quản lý nhà nước và kỹ năng công tác đảng, đoàn thể. Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị tại các trường chính trị tỉnh, thành phố giữ vai trò quyết định trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở, góp phần trực tiếp vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị ở địa phương.
Trong gần một thập kỷ qua, hệ thống các trường chính trị tỉnh đã có bước phát triển đáng ghi nhận. Theo số liệu tổng hợp của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2023), cả nước có 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với hơn 1.500 giảng viên lý luận chính trị. Bình quân mỗi trường có từ 20 đến 25 giảng viên, trong đó khoảng 85% có trình độ thạc sỹ trở lên, 100% là đảng viên, nhiều người từng trải qua thực tiễn công tác lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Tỷ lệ giảng viên có trình độ cao cấp lý luận chính trị đạt gần 90%, một số trường đạt 100%2. Đây là nền tảng quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu và bồi dưỡng cán bộ.
Chất lượng giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh
TT | Chỉ tiêu | Số lượng | Tỷ lệ (%) |
1 | Tổng số giảng viên | 1547 | 100 |
2 | Trình độ sau đại học | 1310 | 84,7 |
3 | Có trình độ tiến sĩ | 186 | 12,0 |
4 | Cao cấp lý luận chính trị | 1383 | 89,4 |
5 | Thành thạo công nghệ thông tin phục vụ giảng dạy | 972 | 62,8 |
6 | Sử dụng được ngoại ngữ trong giảng dạy/nghiên cứu | 415 | 26,8 |
Phần lớn giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Nhiều người tâm huyết với nghề, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin, soạn giảng bằng bài trình chiếu, tổ chức các hoạt động thảo luận, xử lý tình huống.
Một số trường đã xây dựng kho học liệu điện tử, bài giảng e-learning, đáp ứng nhu cầu học tập trực tuyến của học viên, đặc biệt trước yêu cầu của sự phát triển khoa học công nghệ và chuyển đổi số quốc gia hiện nay. Ngoài ra, nhiều giảng viên còn chủ động nghiên cứu khoa học, tham gia biên soạn tài liệu, tổng kết thực tiễn, đóng góp cho công tác lý luận của Đảng, tiêu biểu, như: Trường Chính trị Lê Duẩn (Quảng Trị), mạnh về nghiên cứu tổng kết thực tiễn chiến tranh cách mạng và công cuộc đổi mới; nhiều giảng viên là tác giả, đồng tác giả sách chuyên khảo về lịch sử địa phương.
Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ (Bắc Ninh), nổi bật với mô hình “Lớp học thông minh” và ứng dụng phần mềm quản lý học tập LMS (Learning Management System) với 100% giảng viên có trình độ sau đại học, 18% là tiến sĩ. Trường Chính trị Tôn Đức Thắng (An Giang), gắn kết chặt chẽ lý luận với thực tiễn sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của địa phương; tổ chức các khóa thực tế cho học viên tại doanh nghiệp. Trường Chính trị Trần Phú (Hà Tĩnh), chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng sư phạm cho giảng viên; tỷ lệ sử dụng thành thạo công nghệ thông tin trong giảng dạy đạt 75%. Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh, là đơn vị tiên phong trong triển khai bài giảng E-learning, có kho học liệu điện tử với hơn 500 bài giảng, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sỹ cao nhất cả nước (28%)3.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh vẫn còn những hạn chế. Cơ cấu chuyên ngành chưa đồng đều, thiếu giảng viên chuyên sâu ở một số lĩnh vực, như: kinh tế chính trị, xã hội học, quản lý nhà nước, kỹ năng lãnh đạo, quản trị công. Năng lực nghiên cứu khoa học của nhiều giảng viên chưa cao; số lượng bài báo đăng trên các tạp chí khoa học uy tín còn ít. Theo thống kê của Học viện Chính trị quốc gia, trong giai đoạn 2020 – 2022, bình quân mỗi giảng viên ở trường chính trị tỉnh chỉ công bố 0,3 bài/năm trên các tạp chí có phản biện4. Kỹ năng sử dụng ngoại ngữ và công nghệ thông tin của một bộ phận giảng viên còn hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tri thức mới, cập nhật tài liệu quốc tế. Không ít giảng viên vẫn duy trì lối giảng dạy truyền thống, thuyết trình một chiều, ít áp dụng phương pháp dạy học tích cực, dẫn đến hiệu quả truyền đạt chưa cao.
Nguyên nhân của những hạn chế này là do, chế độ đãi ngộ đối với giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh chưa thực sự hấp dẫn so với khu vực đại học, học viện; điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, nghiên cứu còn hạn chế, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Một bộ phận giảng viên chưa chủ động tự học, tự bồi dưỡng; cơ hội tham gia các khóa đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ chưa đồng đều giữa các địa phương.
Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đặc biệt là chủ trương sáp nhập và tinh giản bộ máy hành chính nhà nước, đã và đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh trong việc nâng cao chất lượng chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, trình độ sử dụng công nghệ, ngoại ngữ…
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) khẳng định: phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, coi phát triển đội ngũ là khâu then chốt. Nâng cao chất lượng toàn diện, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn về trình độ đào tạo5. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị; xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu thực tiễn, trình độ chuyên môn sâu và kỹ năng sư phạm tốt6.
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng cùng quá trình chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo đang làm thay đổi sâu sắc phương thức giảng dạy, yêu cầu chuẩn mực và năng lực mới đối với giảng viên lý luận chính trị. Đòi hỏi giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh phải thành thạo công nghệ số, tiếp cận tri thức toàn cầu, đồng thời bảo đảm định hướng chính trị vững vàng, phấn đấu đặt mục tiêu đến 2030, 100% giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh có trình độ sau đại học, trong đó tối thiểu 20% có trình độ tiến sĩ7. Đây là những yêu cầu và định hướng rất cao, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành, các tổ chức lực lượng liên quan, trong đó vai trò trách nhiệm của mỗi giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh.
3. Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh hiện nay
Thứ nhất, phải chuẩn hóa trình độ và năng lực của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Chuẩn hoá không chỉ dừng ở yêu cầu tối thiểu về trình độ sau đại học hay cao cấp lý luận chính trị, mà cần mô tả năng lực theo khung chuẩn đầu ra của giảng viên lý luận chính trị. Trình độ và năng lực là hai yếu tố song hành với nhau, được quán triệt và thực hiện nghiêm túc ở các trường chính trị tỉnh, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.
Một khung năng lực thực tiễn nên gồm các nhóm: bản lĩnh chính trị và đạo đức công vụ; kiến thức nền tảng lý luận chính trị và liên ngành (chính sách công, quản trị nhà nước, kinh tế – xã hội địa phương); năng lực sư phạm hiện đại (thiết kế học tập, học tập trải nghiệm, đánh giá vì học tập); năng lực nghiên cứu – tổng kết thực tiễn; năng lực số và dữ liệu; năng lực ngoại ngữ và hội nhập. Mỗi nhóm cần có chỉ báo hành vi cụ thể để làm căn cứ tuyển dụng, bồi dưỡng, đánh giá.
Cần tăng cường mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu, tạo điều kiện cho giảng viên học tập ở các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, bảo đảm 100% giảng viên có trình độ sau đại học vào năm 2025, trong đó ít nhất 25% đạt trình độ tiến sỹ vào năm 2030 và từng bước nâng cao hơn nữa vào những năm tiếp theo8.
Thứ hai, các trường chính trị tỉnh cần tập trung đột phá vào đổi mới phương pháp và kỹ năng sưphạm cho đội ngũ giảng viên. Bản chất các học phần lý luận chính trị ở trường chính trị là gắn lý luận với thực tiễn quản trị địa phương. Vì vậy, lớp học cần chuyển từ “truyền thụ – ghi chép” sang “nhiệm vụ – sản phẩm”. Mỗi học phần xác định 2 – 3 thách thức thực tế (ví dụ: cải cách thủ tục hành chính ở cấp xã; chuyển đổi số trong giải quyết khiếu nại; phát triển sản phẩm OCOP) để người học phân tích bằng khung lý luận và đề xuất giải pháp.
Công cụ sư phạm then chốt gồm: dự án nhỏ (mini-project), mô phỏng (simulation), toạ đàm chuyên gia, hồ sơ học tập (portfolio) và đánh giá đồng đẳng. Bài giảng cần tích hợp dữ liệu cập nhật của tỉnh, xã để người học “đụng” vào số liệu thật. Các trường chính trị nên thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy tích cực, ứng dụng công nghệ thông tin, thiết kế bài giảng số, khai thác tối đa các nền tảng học tập trực tuyến. Giảng viên phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa thuyết trình và tổ chức hoạt động học, lấy người học làm trung tâm, tăng cường xử lý tình huống thực tiễn, thảo luận nhóm, mô phỏng công việc quản lý nhà nước.
Thứ ba, chú trọng nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Với giảng viên lý luận chính trị, nghiên cứu phải đối thoại với thực tiễn địa phương. Cần thiết kế các “đề tài tác động nhanh” (rapid policy notes) có thời gian 3 – 6 tháng, nhóm 3 – 5 người, bám vào vấn đề nóng (an sinh xã hội, chuyển đổi số cấp cơ sở, nông thôn mới nâng cao…). Sản phẩm gồm khuyến nghị chính sách 5-7 trang, hội thảo chia sẻ với sở, ngành và tối thiểu một bài báo/đề tài cấp cơ sở.
Các nhà trường nên trích 1-2% kinh phí thường xuyên cho quỹ nghiên cứu nhỏ; đồng thời liên kết đặt hàng của tỉnh, xã để nghiên cứu có “đầu ra” sử dụng thật. Mỗi giảng viên cần có kế hoạch nghiên cứu hằng năm, gắn nội dung nghiên cứu với yêu cầu thực tiễn địa phương, các trường cần xây dựng quy chế khuyến khích viết bài đăng trên các tạp chí khoa học uy tín, tham gia hội thảo quốc gia, quốc tế. Việc liên kết nghiên cứu với các trường đại học, viện nghiên cứu cũng giúp giảng viên mở rộng tầm nhìn và nâng cao chất lượng công trình khoa học.
Thứ tư, quan tâm cải thiện chính sách đãi ngộ. Cần có cơ chế thu hút nhân tài, hỗ trợ tài chính cho giảng viên học tập nâng cao trình độ, đặc biệt là đào tạo tiến sĩ. Bên cạnh đó, cần có chế độ phụ cấp giảng dạy, phụ cấp trách nhiệm, hỗ trợ nhà ở, phương tiện làm việc, khen thưởng xứng đáng đối với giảng viên có thành tích xuất sắc. Cần cơ chế trả công theo chất lượng, sản lượng, như: bài giảng số chuẩn hoá, case study, bài báo, đề tài, khoá bồi dưỡng chuyển giao cho tỉnh, tư vấn chính sách…
Các trường cần xây dựng văn hóa trao đổi học thuật, phản biện khoa học minh bạch, tôn trọng khác biệt học thuật, khuyến khích phản biện xây dựng, chống hình thức chạy theo thành tích và bên cạnh đó, cần chú trọng chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy, áp dụng đánh giá giảng viên đa chiều (từ đồng nghiệp, học viên, lãnh đạo) sẽ tạo động lực cải thiện chất lượng.
Thứ năm, tăng cường gắn kết thực tiễn. Giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh không chỉ giỏi về lý thuyết mà còn phải am hiểu thực tiễn địa phương. Do đó, các trường chính trị cần tổ chức định kỳ cho giảng viên đi nghiên cứu thực tế ở cơ sở, tham gia các hoạt động của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể. Kết quả thực tiễn này cần được tích hợp vào bài giảng, giúp nội dung giảng dạy sinh động, thiết thực hơn.
Mỗi năm, giảng viên nên có tối thiểu 2-3 chuyến đi thực tế có chủ đích (site visit) tới xã, phường, doanh nghiệp, hợp tác xã, khu công nghiệp, khu dân cư đô thị, vùng nông thôn mới kiểu mẫu… Đoàn thực tế không chỉ “tham quan” mà thu thập hồ sơ tình huống, phỏng vấn bán cấu trúc, chụp ảnh tư liệu, xin dữ liệu thứ cấp. Tư liệu được chuẩn hoá thành case study địa phương để đưa vào bài giảng. Nhà trường có thể ký thoả thuận với các Ủy ban nhân dân xã để đặt hàng nhóm giảng viên xây dựng “bản đồ vấn đề” (problem mapping) của địa bàn.
4. Kết luận
Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh giữ vai trò then chốt trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở. Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, việc nâng cao chất lượng đội ngũ này là yêu cầu cấp bách và lâu dài. Thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đồng thời hiện thực hóa mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 236.
2, 3, 4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2023). Báo cáo nội bộ tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác trường chính trị, trường bộ, ngành năm 2023, triển khai nhiệm vụ năm 2024.
5, 6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.