Phát triển kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới

TS. Lê Thị Minh Phượng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế vẫn tuân thủ theo đúng nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, trong đó có coi trọng và phát huy kinh tế tư nhân. Bài viết tập trung phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế khu vực tư nhân, đánh giá những kết quả đạt được, các tồn tại, hạn chế, từ đó, đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực này trong tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam thời gian tới.

Từ khóa: Phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế ngoài nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.

1. Đặt vấn đề

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo nền tảng vững chắc cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò là một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia. Kinh tế tư nhân đang giữ vị trí tiên phong trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững. Cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân là một trong ba trụ cột nòng cốt góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả nhằm đưa đất nước vươn lên phát triển phồn vinh, thịnh vượng.

Việc phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là nhiệm vụ cấp bách mà còn mang tính chiến lược lâu dài. Đây là nội dung cần được cụ thể hoá trong các chiến lược, chính sách phát triển của đất nước. Mục tiêu là phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực trong Nhân dân – phục vụ phát triển toàn diện đất nước, đồng thời củng cố quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng doanh nghiệp và quy mô vốn. Giai đoạn 2010 – 2021, trung bình mỗi năm có trên 100 nghìn doanh nghiệp được thành lập, với tổng số vốn đăng ký hằng năm đạt trên 500 nghìn tỷ đồng. Đặc biệt, giai đoạn từ năm 2018 – 2024, con số này tăng lên hơn 130 nghìn doanh nghiệp mỗi năm, với vốn đăng ký trung bình vượt 150 nghìn tỷ đồng (Nguyễn Văn Thành và Trần Kim chung, 2023).

Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đã hình thành một số doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Một số doanh nghiệp còn mở rộng đầu tư ra nước ngoài và đạt được những thành công nhất định về thương hiệu và vị thế trên thị trường quốc tế. Đội ngũ doanh nhân không ngừng phát triển, thể hiện tinh thần đổi mới, khởi nghiệp và khát vọng vươn lên; đồng thời ngày càng thể hiện rõ trách nhiệm xã hội, đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp.

Về đóng góp vào nền kinh tế, khu vực kinh tế ngoài nhà nước (bao gồm kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể) liên tục chiếm tỷ trọng trên 50% GDP cả nước: 50,55% năm 2019; 50,56% năm 2020; 50,04% năm 2021. Trong đó, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, bao gồm: doanh nghiệp tư nhân; công ty hợp doanh; công ty TNHH tư nhân; công ty cổ phần không có vốn nhà nước và các doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 50%.

Theo thống kê, cả nước hiện có 710.664 doanh nghiệp ngoài nhà nước, chiếm 96,6% số doanh nghiệp. Trong số này, 44,3% doanh nghiệp có lãi, 8,6% hoà vốn và 47,1% đang kinh doanh thua lỗ. Tỷ lệ doanh nghiệp có lãi tuy chưa chiếm ưu thế tuyệt đối, nhưng cho thấy sự phát triển về mặt quy mô và vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

Năm 2022, doanh nghiệp ngoài nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong nền kinh tế khi tạo ra 20,7 triệu tỷ đồng doanh thu thuần, chiếm 57,5% doanh thu thuần của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Con số này tăng 176% so với năm 2021. Doanh thu thuần bình quân doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 29,1% tỷ đồng/doanh nghiệp, tăng 149% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tạo ra 11,0 triệu tỷ đồng doanh thu thuần, chiếm 30,5%, tăng 16,1% so với năm 2021. Doanh thu thuần bình quân doanh nghiệp FDI đạt 478,6 tỷ đồng/ doanh nghiệp, tăng 14,5%. Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước đóng góp 4,3 triệu tỷ đồng doanh thu thuần, tương ứng 12,0% tổng doanh thu, tăng 27,5% so với năm trước. Doanh thu thuần bình quân của mỗi doanh nghiệp nhà nước đạt 2,3 nghìn tỷ đồng, ghi nhận mức tăng 30,6%.

Khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là trong giải quyết việc làm cho người lao động. Giai đoạn 2010 – 2021, mặc dù tỷ trọng lao động từ 15 tuổi trở lên của khu vực này có xu hướng giảm từ 86,3% (năm 2010) xuống còn 82,6% (năm 2021), nhưng khu vực này vẫn bảo đảm việc làm cho hơn 80% lao động của nền kinh tế.

Tốc độ tăng trưởng số lao động trong khu vực kinh tế tư nhân giai đoạn 2011 – 2018 đạt trung bình trên 3,6% mỗi năm; riêng khu vực doanh nghiệp tư nhân đạt gần 5,4%, cho thấy xu hướng mở rộng liên tục. Năm 2022, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước đã thu hút khoảng  9,1 triệu lao động, chiếm 59,2% tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm  2021. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp này thuộc loại hình siêu nhỏ và nhỏ, với quy mô lao động bình quân chỉ đạt 12,8 người/doanh nghiệp, phản ánh thách thức trong việc nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh.

Trong năm 2022, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước thu hút nguồn vốn lớn nhất, đạt 35,3 triệu tỷ đồng, chiếm 59,7% vốn của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, tăng 7,3% so với năm 2021. Tuy nhiên, do phần lớn doanh nghiệp thuộc nhóm nhỏ và siêu nhỏ, nên có quy mô vốn bình quân chỉ đạt 49,7 tỷ đồng/ doanh nghiệp.

Ngược lại, khu vực doanh nghiệp nhà nước dù chỉ chiếm 0,3% tổng số doanh thu nhưng thu hút tới 12,1 triệu tỷ đồng, tương đương 20,5% tổng vốn toàn khu vực doanh nghiệp, tăng 11,2% so với năm trước. Do đó, quy mô vốn bình quân của doanh nghiệp nhà nước rất cao, đạt 6,5 nghìn tỷ đồng/doanh nghiệp. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp có vốn FDI thu hút 11,7 triệu tỷ đồng, chiếm 19,8% tổng vốn và tăng 10,0% so với năm 2021. Quy mô nguồn vốn bình quân đạt 509,1 tỷ đồng/ doanh nghiệp, cao hơn đáng kể so với doanh nghiệp tư nhân nhưng thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp nhà nước.

Trong những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân đã có bước phát triển mạnh mẽ và đóng góp đáng kể vào nền kinh tế quốc dân. Tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng liên tục, từ 44,6% (năm 2010) lên mức 59,5% (năm 2021)vượt xa khu vực nhà nước và FDI. Nhiều công trình hạ tầng quy mô lớn đã được khu vực kinh tế tư nhân khởi công và vận hành trong giai đoạn 2010-2022, chứng tỏ vai trò ngày càng rõ nét của thành phần kinh tế này trong phát triển kết cấu hạ tầng.

Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả tích cực, kinh tế tư nhân vẫn bộc lộ một số hạn chế và thách thức. Trước hết, cơ chế khuyến đổi mới sáng tạo còn thiếu và chưa phát huy hiệu quả, khiến doanh nghiệp khó tạo ra sản phẩm cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Công tác cải cách hành chính chưa đạt mục tiêu đề ra, thủ tục hành chính vẫn rườm rà, chồng chéo, chi phí “tuân thủ” và chi phí kinh doanh còn cao. Phần lớn doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, có quy mô hạn chế, thiếu vốn, công nghệ và năng lực cạnh tranh; vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp lớn còn mờ nhạt trong khi khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu còn thấp.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn gặp khó khăn từ biến động kinh tế toàn cầu, yêu cầu chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và tỷ trọng chế biến, chế tạo còn hạn chế. Môi trường pháp lý còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, đôi khi tạo ra sự phân biệt đối xử khi ưu đãi tập trung vào khu vực nhà nước, còn khu vực tư nhân phải đối mặt với nhiều rào cản và chi phí không chính thức. Về mặt công nghệ, đầu tư cho đổi mới sáng tạo chỉ chiếm 0,3% doanh thu, thấp hơn nhiều so với các nước, như: Ấn Độ (5%), Hàn Quốc (10%),… dẫn đến năng suất lao động và khả năng cạnh tranh thấp.  Nhiều doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa, thường xuyên thiếu vốn và gặp khó khăn về dòng tiền ảnh hưởng đến khả năng mở rộng và phát triển bền vững. Những vẫn đề này đang cản trở vai trò động lực của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế – xã hội, đòi hỏi phải có những cải cách mạnh mẽ và đồng bộ trong thời gian tới.

3. Một số khuyến nghị

Thứ nhất, cần đổi mới tư duy xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật bảo đảm nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng các công cụ thị trường để điều tiết nền kinh tế; giảm thiểu sự can thiệp và xoá bỏ các rào cản hành chính, cơ chế “xin – cho”, tư duy “không quản được thì cấm”. Người dân, doanh nghiệp cần được tự do kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm. Quyền kinh doanh chỉ có thể bị hạn chế vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, môi trường và sức khoẻ của cộng đồng và phải được quy định trong luật.

Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, xoá bỏ các rào cản tiếp cận thị trường, bảo đảm môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, rõ ràng, nhất quán, ổn định lâu dài, dễ tuân thủ, chi phí thấp. Minh bạch hoá, số hoá, thông minh hoá, tự động hoá, áp dụng triệt để trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong thực hiện các quy trình, thủ tục hành chính, nhất là về gia nhập, rút lui khỏi thị trường, đất đai, quy hoạch, đầu tư, xây dựng, thuế, hải quan, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn…

Trong năm 2025, hoàn thành việc rà soát, loại bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết, quy định chồng chéo, không phù hợp, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân; thực hiện cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính, ít nhất 30% chi phí tuân thủ pháp luật, ít nhất 30% điều kiện kinh doanh và tiếp tục cắt giảm mạnh trong những năm tiếp theo. Triển khai mạnh mẽ việc cung cấp dịch vụ công cho doanh nghiệp không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Phấn đấu đến năm 2028, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam thuộc nhóm 3 quốc gia hàng đầu ASEAN và nhóm 30 quốc gia hàng đầu thế giới.

Thứ ba, chuyển từ nền hành chính công vụ, quản lý là chủ yếu sang phục vụ và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; hiện đại hoá quản trị công, quản trị dựa trên dữ liệu. Thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Chuyển việc quản lý điều kiện kinh doanh từ cấp phép, chứng nhận sang thực hiện công bố điều kiện kinh doanh và hậu kiểm, trừ một số ít lĩnh vực bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp phép theo quy định và thông lệ quốc tế.

Sửa đổi Luật Phá sản, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục pháp lý, mở rộng phạm vi áp dụng chế tài phá sản rút gọn; đẩy mạnh áp dụng thủ tục tố tụng trên nền tảng điện tử, cải cách cơ chế xử lý tài sản. Thiết lập cơ chế đánh giá, phản hồi về các rào cản, vướng mắc trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. Khắc phục tình trạng thiếu nhất quán trong thực thi chính sách giữa trung ương và địa phương, giữa các bộ, ngành và giữa các địa phương với nhau.

Thứ, thực hiện cơ chế thị trường, không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực vốn, đất đai, tài nguyên, tài sản, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực tài nguyên khác. Rà soát, hoàn thiện các chính sách thuế, phí, lệ phí theo hướng bảo đảm đối xử công bằng giữa các thành phần kinh tế, giảm thuế suất, mở rộng cơ sở tính thuế, nhất là thu thuế điện tử khởi tạo từ máy tính tiền; nghiêm cấm lạm dụng quyết định hành chính, hành vi bảo hộ cục bộ của ngành, địa phương. Xử lý nghiêm các hành vi làm hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh.

Thứ năm, hoàn thiện khung pháp lý cho các mô hình kinh tế mới, kinh doanh dựa trên công nghệ và nền tảng số, đặc biệt là công nghệ tài chính, trí tuệ nhân tạo, tài sản ảo, tiền ảo, tài sản mã hoá, tiền mã hoá, thương mại điện tử… Có cơ chế thử nghiệm đối với những ngành, lĩnh vực mới trên cơ sở hậu kiểm, phù hợp với thông lệ quốc tế. Hoàn thiện pháp luật, chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp kết nối, chia sẻ, khai thác dữ liệu, bảo đảm an ninh, an toàn.

Thứ sáu, tạo mọi thuận lợi trong giải quyết thủ tục hành chính; phân công, phân cấp, phân nhiệm rõ ràng giữa các cấp, ngành của từng cơ quan, đơn vị, xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu trong giải quyết thủ tục hành chính. Xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, trục lợi cá nhân, nhũng nhiễu của cán bộ, công chức; đồng thời, có cơ chế miễn trừ trách nhiệm đối với trường hợp đã thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định liên quan, không tư lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhưng có thiệt hại do rủi ro khách quan.

Thứ bảy, có cơ chế, chính sách đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo đảm theo nguyên tắc thị trường và tuân thủ các cam kết quốc tế; bãi bỏ lệ phí môn bài; miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong 3 năm đầu thành lập; bố trí đủ nguồn lực từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương cho các chương trình, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, kết hợp huy động nguồn lực từ các quỹ đầu tư của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng, viện nghiên cứu, trường đại học… Tăng cường vai trò của kinh tế tư nhân, doanh nhân trong tham gia góp ý, phản biện chính sách, bảo đảm thực chất, hiệu quả, minh bạch.

Thứ tám, đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng, đa dạng hoá các kênh phân phối, phát triển mạnh các nền tảng số, thương mại điện tử; triển khai thực chất, hiệu quả Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; nâng cấp, đổi mới chương trình xúc tiến thương mại quốc gia; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân xây dựng và quảng bá thương hiệu. Khuyến khích phát triển các tập đoàn bán lẻ tư nhân; có chính sách ưu tiên cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tham gia chương trình, kế hoạch, dự án mua sắm công phù hợp với thông lệ quốc tế. Nâng cao năng lực thực thi, tận dụng các cam kết quốc tế và có cơ chế hỗ trợ hiệu quả giải quyết tranh chấp quốc tế cho khu vực kinh tế tư nhân…

Thứ chín, cập nhật và chuẩn hoá hệ thống chỉ tiêu, số liệu thống kê, cơ sở dữ liệu về kinh tế tư nhân để phục vụ cho công tác đánh giá, hoạch định chính sách, chiến lược phát triển phù hợp cho từng giai đoạn. Có cơ chế phù hợp chia sẻ hệ thống dữ liệu cho các cơ quan, tổ chức nghiên cứu, tư vấn, phản biện chính sách.

4. Kết luận

Phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế vẫn tuân thủ theo đúng nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, trong đó, coi trọng và phát huy kinh tế tư nhân. Song, muốn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng quỹ đạo, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, sự vào cuộc cả hệ thống chính trị. Nhà nước vừa phải vận dụng các công cụ kinh tế, pháp luật để quản lý, vừa phải có thực lực kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà nước không chỉ giữ vai trò chủ đạo mà còn là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.

Tài liệu tham khảo:
1. Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2024. https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/10/Sach-trang-doanh-nghiep-Viet-Nam-2024.pdf.
2. Toàn văn Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. https://kinhtetrunguong.vn/kinh-te/toan-van-nghi-quyet-so-68-nq-tw-ve-phat-trien-kinh-te-tu-nhan.html.
3. Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. https://tapchicongsan.org.vn/media-story/content/mot-so-van-de-ly-luan-thuc-tien-ve-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-o-viet-nam.
4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/12/24/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-kinh-te-tu-nhan-trong-phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam.
5.Thực trạng và giải pháp phát triển thành phần kinh tế tư nhân. https://tapchitaichinh.vn/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-thanh-phan-kinh-te-tu-nhan.html.
6. Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế quốc gia. https://kinhtetrunguong.vn/kinh-te/kinh-te-tu-nhan-la-dong-luc-quan-trong-nhat-cua-nen-kinh-te-quoc-gia.html.