Vai trò của công tác xây dựng hệ thống tổ chức đảng đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám – 1945 và ý nghĩa trong xây dựng hệ thống tổ chức đảng hiện nay

Nguyễn Thế Anh
Thái Văn Lai
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Công tác xây dựng hệ thống tổ chức đảng là một mặt của hoạt động xây dựng Đảng về tổ chức, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh, toàn diện về mọi mặt. Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, vấn đề cơ bản nhất, quyết định nhất là phải giành được chính quyền, đưa Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Để làm được điều đó, trước hết Đảng phải có một hộ thống được tổ chức khoa học, thống nhất chặt chẽ từ trung ương đến cơ sở làm nòng cốt lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa, góp phần đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám – 1945.

Từ khóa: Xây dựng, phát triển, hệ thống tổ chức đảng, Cách mạng tháng Tám 1945.

1. Đặt vấn đề

Đường lối chính trị đúng, được dẫn dắt bởi một lý luận cách mạng, khoa học, nhất là trong điều kiện Đảng chưa giành được chính quyền, phải hoạt động bí mật, cùng với tạo dựng được một đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh, việc xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững mạnh, rộng khắp có vai trò rất quan trọng, quyết định sự thành bại của cách mạng. Trong cuộc vận động chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng Cộng sản Đông Dương đã xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức đảng làm nòng cốt đưa chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng, chính sách của Mặt trận đến với quần chúng; tập hợp, tổ chức và phát động cao trào cách mạng, kịp thời chớp thời cơ lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.

2. Vai trò của công tác xây dựng hệ thống tổ chức đảng đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám – 1945

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, kẻ thù thẳng tay đàn áp, đánh phá ác liệt hệ thống tổ chức đảng. Các tổ chức đảng, đặc biệt là cấp ủy các cấp từ trung ương đến cơ sở bị tổn thất nặng nề, hàng nghìn cán bộ, đảng viên1 bị bắt, tù đày và xử tử, nhiều đồng chí là lãnh đạo cấp cao của Đảng, như: Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Võ văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến… Trong tình hình đó, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương từ ngày 10 – 19/5/1941, việc xác định chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng tổ chức đảng nói riêng được đực biệt coi trọng “đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng”2. Hội nghị đã bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư; Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm các đồng chí: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hạ Bá Cang… Sau Hội nghị, các cấp bộ Đảng và cán bộ, đảng viên đã nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí, vai trò của công tác xây dưng, khôi phục, phát triển hệ thống tổ chức đảng. Tập trung làm tốt công tác phát triển đảng, nhất là ở các đô thị lớn, hầm mỏ, đồn điền, các vùng nông thôn và dân tộc thiểu số.

Nhờ đẩy mạnh công tác xây dựng, khôi phục tổ chức đảng, Đảng đã đứng vững trước sức tấn công ác liệt của kẻ thù, từng bước gây dựng lại tổ chức, củng cố và tăng cường về số lượng, đầu mối chỉ đạo, phát triển ra khắp các vùng miền trong cả nước. Đến tháng 8/1945, đã có 58 tỉnh, thành phố tổ có tổ chức đảng từ chi bộ trở lên, trong có 50 tỉnh, thành phố đã lập được cơ quan lãnh đạo có tỉnh ủy, Ban cán sự. Về số lượng đảng viên, theo Hội nghị toàn quốc của Đảng (8/1945), toàn quốc có 1.271 đảng viên, trong đó: Bắc kỳ có 180 đồng chí; Trung kỳ có 181 đồng chí; Nam kỳ có 700 đồng chí; khu giải phóng có 160 đồng chí3…, còn “trước ngày Cách mạng tháng Tám, Đảng ta chỉ có độ 5.000 đảng viên”4.

Như vậy, chỉ sau 15 năm thành lập, với những chủ trương đúng đắn, sáng tạo, cùng với tinh thần cách mạng quả cảm, ý chí kiên cường khắc phục khó khăn, gian khổ, Đảng ngày càng được xây dựng, củng cố và phát triển. Có thể nói công tác xây dựng tổ chức đảng đóng vai trò quan trọng góp phần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đưa phong trào cách mạng tiếp tục phát triển, khi thời cơ cách mạng chín muồi, kịp thời lãnh đạo nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám thắng lợi, mở ra một thời kỳ mới cho toàn thể dân tộc Việt Nam, thời kỳ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Vai trò của công tác xây dựng hệ thống tổ chức đảng, được thể hiện trên các nội dung cụ thể sau:

Một là, củng cố, phát triển hệ thống tổ chức của Đảng là yếu tố bảo đảm sự lãnh đạo liên thông từ trung ương đến cơ sở. Hệ thống tổ chức của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự lớn mạnh, phát triển và vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng. V.I. Lênin từng khẳng định: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo lộn nước Nga lên”5. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã đặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức của Đảng, coi đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để Đảng xác lập vai trò lãnh đạo và hiện thực hóa mục tiêu lý tưởng của Đảng, của cách mạng, Đảng khẳng định: “Công việc tổ chức là một phần công việc rất quan trọng của Đảng. Nếu công việc đó làm không đúng thì nguy hại cho Đảng rất lớn”6.

Thành công lớn nhất của Đảng là xây dựng, củng cố được hệ thống tổ chức của Đảng, nhất là Ban Chấp hành Trung ương và các xứ ủy. Trong điều kiện địch khủng bố, đàn áp rất ác liệt, nhiều đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương, các xứ ủy bị địch bắt, giết hại. Tuy nhiên, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng vẫn cố gắng bảo vệ, bổ sung, kiện toàn cơ quan thượng cấp, trước hết là Ban Thường vụ Trung ương Đảng và các xứ ủy. Nhờ vậy, sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng luôn được duy trì ổn định; sự liên thông trong lãnh đạo giữa Trung ương với các xứ ủy, tỉnh ủy, các cấp ủy, tổ chức đảng không bị gián đoạn.

Hai là, góp phần tuyên truyền, phổ biến đường lối của Đảng, cổ vũ phong trào cách mạng. Trong điều kiện Đảng chưa giành được chính quyền, để lãnh đạo được Nhân dân, cách duy nhất là phải xây dựng được hệ thống tổ chức đảng từ trung ương đến các thành phố, thị xã, thôn xóm, làng, bản. Thông qua các tổ chức và đội ngũ cán bộ của Đảng bằng nhiều hình thức tuyên truyền, vận động phong phú, kiên trì, bền bỉ, vừa thiết thực vừa sâu sát thông qua đó để tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Mặt trận Việt Minh, thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản trên thế giới và của Đông Dương. Đặc biệt, trước sự khủng bố dã man của kẻ thù, các tổ chức đảng đã kịp thời tuyên truyền những tấm gương đấu tranh kiên trung, anh dũng hy sinh để gây dựng niềm tin, lan tỏa tinh thần đấu tranh, thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển.

Ba là, đóng vai trò quan trọng trong tập hợp, xây dựng lực lượng, phát động phong trào đấu tranh của Nhân dân.

Để lật đổ được lực lượng phản cách mạng, phải tập hợp được đông đảo lực lượng cách mạng của quần chúng đứng lên đấu tranh, trong đó, Đảng phải sử dụng nhiều hình thức tổ chức và tập hợp lực lượng. Thực tiễn cho thấy, khi tình hình thế giới và Đông Dương có sự biến đổi, Đảng chủ trương thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Do đó, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11/1936), chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương và đến tháng 3/1938 được đổi tên thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương.

Sau khi trở về nước, thực hiện chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đẩy mạnh tập hợp lực lượng, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền, theo sáng kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Đảng quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh). Nhờ chính sách mặt trận đúng đắn, đã góp phần tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng. Tuy nhiên, để Mặt trận hoạt động đúng với tôn chỉ, mục đích, tương ứng với hệ thống các cấp trong Mặt trận là hệ thống tổ chức đảng các cấp. Đồng thời, trong hệ thống của Mặt trận, Đảng đã cử các đảng viên cộng sản tham gia Mặt trận, nhiều nơi cơ quan lãnh đạo Mặt trận chính là cơ quan của Đảng, hoặc phần lớn là đảng viên của Đảng.

Cùng với đó, thông qua xây dựng tổ chức đảng làm nòng cốt xây dựng các tổ chức đoàn thể, quần chúng nhân dân với nhiều hình thức đấu tranh từ thấp đến cao, kết hợp cả đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp, trực tiếp là đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng luôn nêu cao tinh thần tiên phong, xung kích đi đầu trong các phong trào như chống tăng thuế, đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, phá kho thóc của Nhật… qua đó, cảm hóa, khích lệ Nhân dân, nhất là những quần chúng còn đang chần chừ, do dự hăng hái tham gia phong trào cách mạng.

Bốn là, hệ thống tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở đóng vai trò to lớn trong lãnh đạo Nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám – 1945. Khi tình thế và thời cơ cách mạng xuất hiện, “Phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức, Ý. Quân đội Nhật đang bị tan rã và bị tước khí giới ở khắp các mặt trận. Quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Giờ hành động quyết liệt đã đến”7. Đảng đã tiệu tập Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc Việt Nam nhất tề nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là cấp ủy, chi bộ cơ sở và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các địa phương trong cả nước, lãnh đạo quần chúng nổi dậy, nhanh chóng chuyển từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân quyết định nhất đó chính là có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

Thực tế cho thấy, trong điều kiện hoạt động bí mật, thường xuyên bị địch chống phá, mặc dù số lượng đảng viên không đông, song nhờ Đảng có đường lối chính trị đúng đắn đã quy tụ được đông đảo quần chúng nhân dân, phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Do đó, đã kịp thời bổ sung đội ngũ cán bộ, đảng viên cho Đảng những quần chúng ưu tú, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng; củng cố, xây dựng, phát triển hệ thống tổ chức đảng trở thành trung tâm tập trung sức mạnh, phát động tuyệt đại đa số nhân dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.

3. Giá trị đối với công tác xây dựng hệ thống tổ chức đảng hiện nay

Hiện nay, trước những diễn biến nhanh chóng, khó dự báo, khó đoán định của tình hình thế giới, khu vực, cùng với những thành tựu đã đạt được qua gần 40 năm đổi mới, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”8. Mặt khác, Đảng, Nhà nước đang thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn bộ máy để tạo nguồn lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển thịnh vượng của dân tộc. Tuy nhiên, đất nước còn đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức, những rào cản, nhất là sự chống phá của các thế lực thù địch đối với vai trò lãnh đạo của Đảng; “tình trạng phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân… Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế”9. Điều đó đặt ra những vấn đề cấp bách đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, xây dựng hệ thống tổ chức đảng nói riêng. Thực tiễn công tác xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong đấu tranh giành chính quyền vẫn còn nguyên giá trị có thể tham khảo, vận dụng trong công tác xây dựng tổ chức đảng hiện nay. Đó là:

Thứ nhất, nhận thức đúng đắn vai trò, tầm quan trọng của công tác xây dựng tổ chức đảng. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”10. Công tác xây dựng hệ thống tổ chức đảng là một nội dung trong công tác xây dựng Đảng về tổ chức. Xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững mạnh sẽ quyết định kết quả thực hiện đường lối chính trị của Đảng.

Thực tế trong thời gian qua, Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) đánh giá: “Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới”11. Do đó, để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; trong cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy… phải làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Điểm đột phá chính là nâng cao nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên về công tác xây dựng hệ thống tổ chức đảng, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của cấp ủy đảng các cấp và của toàn thể cán bộ, đảng viên.

Hai là, xây dựng hệ thống tổ chức đảng phải tinh, gọn, phù hợp với mô hình chính quyền đia phương. Trong Cách mạng tháng Tám – 1945, do phải hoạt động trong điều kiện bí mật nên tổ chức đảng, nhất là cấp ủy các cấp phải được tổ chức hết sức gọn nhẹ mới bảo đảm được an toàn và tránh tổn thất, song đội ngũ cán bộ trong bộ máy phải là những người có tinh thần chiến đấu cao, chịu đựng được gian khổ, hy sinh, có năng lực lãnh đạo, vận động, tập hợp quần chúng…

Trong điều kiện hiện nay, cơ bản đội ngũ cán bộ trong bộ máy của Đảng đều có bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng kiên định, vững vàng, có trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám hy sinh vì lợi ích chung và dám chịu trách nhiệm. Vấn đề đặt ra là, tổ chức bộ máy của hệ thống chính đã và đang được điều chỉnh, sắp xếp song vẫn còn nhiều bất cập. Do đó, đồng thời với sắp xếp tổ chức bộ máy, phải nhanh chóng kiện toàn hệ thống tổ chức đảng; kịp thời bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của cấp ủy, tổ chức đảng mới được thành lập bảo đảm không trái với Điều lệ Đảng.

Ba là, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực tiễn trong Cách mạng tháng Tám, với số lượng đảng viên không nhiều, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo thường xuyên thay đổi do bị địch bắt hoặc giết hại, nhiều tổ chức đảng bị tê liệt,… nhưng trong mọi hoàn cảnh đã kịp thời được bổ sung, củng cố và giữ vững được hệ thống tổ chức đảng. Qua đó, mọi chủ trương của Đảng, của Mặt trận đều được tổ chức thực hiện và đến được với quần chúng.

Hiện nay, để nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên cần quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết trung ương 4 khóa XII, XIII gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Quy định số 08-QĐ/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định số 47-QĐ/TW ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm… Nhất là Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tăng cường củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới.

Bốn là, cùng với làm tốt công tác xây dựng, củng cố tổ chức đảng, phải đặc biệt coi trọng công tác chỉnh đốn tổ chức, kịp thời đưa ra khỏi tổ chức những phần tử cơ hội, suy thoái đạo đức… Do yêu cầu đẩy mạnh xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức chuẩn bị đấu tranh giành chính quyền, nên Đảng không tránh khỏi những phần tử cơ hội lọt vào hàng ngũ của Đảng, phản bội làm tay sai cho giặc. Trong thời kỳ này, thực dân Pháp sử dụng phần tử A.B (Anti-Bolchévik) để đánh phá tổ chức đảng. Trung ương Đảng đã kịp thời phổ biến kinh nghiệm để nhận diện và biện pháp để đối phó, thậm chí là lợi dụng chúng. Từ thực tiễn đó hiện nay, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ giác ngộ, phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên; làm tốt công tác kiểm tra, giám sát; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; nhận diện kịp thời những phần tử suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xử lý nghiêm những cá nhân, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm để làm trong sạch đội ngũ của Đảng.

4. Kết luận

Công tác xây dựng hệ thống tổ chức đảng góp phần quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng; góp phần đưa đường lối, chủ trương của Đảng đến với quần chúng; đồng thời, trực tiếp tổ chức, lãnh đạo quần chúng tiến hành cách mạng và tiếp thu tâm tư, nguyện vọng, những phong trào hay, sáng tạo của quần chúng được hình thành từ chính thực tiễn cách mạng để Đảng đúc rút thành những kinh nghiệm. Nhờ xây dựng, củng cố, phát triển được hệ thống tổ chức đảng rộng khắp từ trung ương đến cơ sở đã góp phần đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám – 1945. Đồng thời, gợi mở những kinh nghiệm quý báu đối với công tác xây dựng Đảng về tổ chức nói riêng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung hiện nay.

Chú thích:
1. Từ ngày 23/11 đến ngày 31/12/1940, chính quyền thực dân đã bắt tổng cộng 5.848 người. Báo Nhân dân, số 9658, ngày 23/11/1980.
2, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 136, 416.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng (2021). Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Tập I (1930 – 1954), quyển I (1930 – 1945). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 669.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 220.
5. V.I. Lê-nin toàn tập (2005). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 162.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 104.
8. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 34.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 89.
10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 113.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 224.