TS. Phạm Văn Phong
Tạp chí Cộng sản
(Quanlynhanuoc.vn) – Đảng và Nhà nước luôn khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu đã được đề ra đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của châu Á, đến năm 2045 vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Đây là khát vọng lớn, đòi hỏi một cuộc đổi mới căn bản, toàn diện hơn nữa đối với giáo dục nước nhà, trong đó chất lượng quản lý nhà nước về giáo dục chính là yếu tố then chốt, đòi hỏi phải có những giải pháp đột phá nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với giáo dục.
Từ khóa: Quản lý nhà nước về giáo dục, phát triển bền vững, đổi mới toàn diện.
1. Đặt vấn đề
Hiệu quả quản lý nhà nước (QLNN) được hiểu là đạt được các mục tiêu giáo dục đã đề ra với phương thức quản lý tinh gọn, thông minh, giảm lãng phí nguồn lực. Hiện nay, công tác QLNN về giáo dục ở nước ta tuy đã có tiến bộ (hệ thống luật pháp dần hoàn thiện, chuyển đổi số trong quản lý bắt đầu được áp dụng…) nhưng vẫn còn không ít hạn chế. Khoảng cách giữa chính sách và thực thi vẫn khá lớn, thể hiện qua việc một số chỉ tiêu quan trọng không được đáp ứng đầy đủ. Để giáo dục thực sự trở thành động lực kiến tạo quốc gia thịnh vượng, cần những giải pháp quyết liệt nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với ngành Giáo dục.
2. Hoàn thiện thể chế, chính sách và pháp luật về giáo dục
Khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ là nền tảng để quản lý nhà nước hiệu quả. Những năm gần đây, Việt Nam đã ban hành hoặc sửa đổi nhiều văn bản quan trọng về giáo dục: Luật Giáo dục năm 2019, Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn… tạo cơ sở pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động giáo dục. Tuy nhiên, hệ thống thể chế vẫn cần tiếp tục hoàn thiện, khắc phục những bất cập, chồng chéo. Một số lĩnh vực vẫn còn khoảng trống pháp lý hoặc chưa theo kịp thực tiễn, đòi hỏi nhanh chóng bổ sung. Vừa qua, việc ban hành Luật Nhà giáo đã tạo đột phá về thể chế, giúp thống nhất các chính sách đãi ngộ và quản lý đội ngũ giáo viên, bảo đảm giáo viên được tôn vinh và yên tâm cống hiến. Các quy định về tự chủ đại học, về xã hội hóa giáo dục cũng cần được rà soát, sửa đổi theo hướng thông thoáng hơn để khuyến khích sáng tạo nhưng phải chặt chẽ trong khâu giám sát để ngăn ngừa lạm dụng.
Hoàn thiện thể chế, song cũng cần bảo đảm đưa chính sách đi vào cuộc sống một cách thiết thực. Muốn vậy, cần thiết lập các cơ chế theo dõi, giám sát độc lập việc thi hành chính sách tại các địa phương, cơ sở giáo dục. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Luật Giáo dục, các đề án, chương trình… phải được tiến hành thường xuyên với chế tài đủ mạnh, tránh để xảy ra tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, trung ương quyết liệt mà địa phương thực hiện hời hợt. Có thể áp dụng công nghệ trong giám sát, như: xây dựng cổng thông tin công khai về các chỉ tiêu, nhiệm vụ giáo dục của từng địa phương, đơn vị. Mọi người dân đều có thể theo dõi mức độ hoàn thành và người đứng đầu địa phương phải chịu trách nhiệm giải trình nếu kết quả không đạt mục tiêu đề ra. Sự minh bạch và chế độ trách nhiệm rõ ràng sẽ tạo áp lực tích cực buộc chính sách được thực thi đầy đủ hơn.
Một yêu cầu nữa cho công tác xây dựng chính sách giáo dục là phải có tầm nhìn dự báo và tính ổn định. Thế giới đang đổi thay nhanh chóng, quản lý giáo dục cần đi trước đón đầu các xu hướng tương lai. Nhà nước cần tăng cường các nghiên cứu dự báo về giáo dục như dự báo tác động của trí tuệ nhân tạo (AI) đối với phương pháp dạy và học, dự báo nhu cầu kỹ năng mới trên thị trường lao động để điều chỉnh chương trình đào tạo… Chính sách ban hành cần mang tầm nhìn dài hạn, hạn chế tối đa việc thay đổi, chỉnh sửa liên tục gây xáo trộn cho hệ thống. Quy trình xây dựng chính sách cũng nên mở rộng tham vấn ý kiến chuyên gia, các nhà giáo, nhà quản lý giáo dục các cấp, bảo đảm tính khả thi và sự đồng thuận cao.
3. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các cấp
Chất lượng QLNN về giáo dục phụ thuộc trực tiếp vào năng lực và phẩm chất của đội ngũ công chức, viên chức quản lý giáo dục từ trung ương đến địa phương. Do đó, xây dựng một đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, tâm huyết và liêm chính là nhiệm vụ then chốt.
Một là, cần có chương trình đào tạo, bồi dưỡng bài bản cho cán bộ quản lý giáo dục ở tất cả các cấp (Bộ Giáo dục và Đào tạo, sở, phòng Giáo dục và Đào tạo và hiệu trưởng các trường). Nội dung bồi dưỡng phải cập nhật các kiến thức, kỹ năng quản trị hiện đại, từ kỹ năng lãnh đạo sự thay đổi, quản trị nhân sự, tài chính đến khả năng ứng dụng công nghệ số trong quản lý giáo dục. Trang bị hiểu biết về các thông lệ quốc tế, mô hình giáo dục tiên tiến trên thế giới để các nhà quản lý có tầm nhìn rộng, tránh tư duy trì trệ. Mỗi cán bộ quản lý giáo dục cũng cần rèn luyện phẩm chất đạo đức, tinh thần phục vụ nhân dân, lòng yêu nghề và trách nhiệm nêu gương. Mục tiêu cuối cùng là hình thành một đội ngũ “trọng giáo, yêu trường”, vừa giỏi chuyên môn quản lý vừa tận tụy, sáng tạo trong công việc.
Hai là, trong bố trí cán bộ quản lý giáo dục, phải thực hiện nghiêm nguyên tắc “đúng người, đúng việc”. Tuyệt đối tránh tình trạng bổ nhiệm những người không có chuyên môn hoặc thiếu hiểu biết sâu về giáo dục vào vị trí lãnh đạo ngành Giáo dục. Cần có chế độ đãi ngộ hợp lý để thu hút và giữ chân người tài làm công tác quản lý giáo dục. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng đã đề ra chủ trương “lương của nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp”. Đến nay, Luật Nhà giáo đã cụ thể hóa tinh thần này, khẳng định giáo viên sẽ được xếp lương cao nhất trong khối sự nghiệp. Đây là bước tiến lớn trong việc đãi ngộ đội ngũ giáo viên. Trong tương quan đó, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục (vốn đa phần xuất thân là nhà giáo) cũng cần có chế độ lương, phụ cấp tương xứng với trách nhiệm để toàn tâm toàn ý với công việc. Đãi ngộ tốt còn giúp hạn chế tiêu cực, nhũng nhiễu, nâng cao tính liêm chính trong bộ máy quản lý giáo dục.
Ba là, cùng với năng lực và chế độ, yếu tố văn hóa tổ chức cũng quyết định hiệu quả làm việc của các cơ quan QLNN về giáo dục. Chúng ta cần xây dựng văn hóa quản lý theo hướng dựa trên mục tiêu và kết quả, đề cao tinh thần phục vụ, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Người đứng đầu mỗi đơn vị phải thực sự là tấm gương về đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Khuyến khích áp dụng mô hình quản lý theo mục tiêu trong ngành Giáo dục, tức là cấp trên và cấp dưới cùng thống nhất các mục tiêu cụ thể, sau đó giao chỉ tiêu rõ ràng cho từng đơn vị, cá nhân và định kỳ đánh giá dựa trên mức độ hoàn thành. Cách làm này sẽ tạo động lực thi đua nâng cao hiệu quả, vì mọi người đều hiểu rõ mục tiêu và trách nhiệm. Xây dựng môi trường làm việc dân chủ, lắng nghe ý kiến đa chiều, khen thưởng kịp thời những sáng kiến hay cũng là yếu tố giúp văn hóa quản lý ngày càng chuyên nghiệp, tiến bộ.
4. Ứng dụng công nghệ và quản lý dựa trên dữ liệu
Thứ nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bắt đầu triển khai xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục từ năm 2018. Hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu ngành Giáo dục mầm non và phổ thông đã cập nhật thông tin của 53.000 trường học, gần 24 triệu học sinh và hơn 1,4 triệu giáo viên trên cả nước1. Mọi dữ liệu về trường lớp, đội ngũ, học sinh, cơ sở vật chất, tài chính… được số hóa và kết nối từ trung ương đến địa phương. Đây là nền tảng quan trọng để chuyển đổi cách thức quản lý, thay vì quản lý thủ công, cảm tính, chuyển sang quản lý dựa trên dữ liệu.
Thực tế cho thấy, nhờ khai thác tốt cơ sở dữ liệu ngành, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bước đầu giải quyết được những vấn đề nhức nhối như tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ giữa các địa phương, các môn học, điều này so với trước đây rất khó xử lý nếu chỉ dùng báo cáo giấy tờ truyền thống. Do đó quản lý bằng dữ liệu giúp lãnh đạo ngành có cái nhìn toàn cảnh, chính xác theo thời gian thực để ra quyết định kịp thời.
Thứ hai, cùng với việc thu thập dữ liệu, ngành Giáo dục cần phát triển các công cụ phân tích và trực quan hóa dữ liệu phục vụ quản lý. Có thể triển khai các hệ thống báo cáo trực tuyến giúp Bộ trưởng và các cấp lãnh đạo theo dõi tức thời các chỉ số quan trọng, tỷ lệ huy động trẻ đi học, kết quả thi cử, tiến độ triển khai chương trình mới theo từng tỉnh, thành phố… Xa hơn, cần xây dựng năng lực phân tích dữ liệu lớn (Big data) và dự báo trong bộ máy quản lý, phân tích dữ liệu dân số kết hợp với số liệu giáo viên hiện có để dự báo sau địa phương nào sẽ thiếu giáo viên trầm trọng, thiếu ở môn học nào, qua đó chủ động kế hoạch đào tạo, tuyển dụng giáo viên. Hoặc dự báo xu hướng học sinh chọn khoa học xã hội hay khoa học tự nhiên để có điều chỉnh về hướng nghiệp.
Thứ ba, một nhiệm vụ quan trọng khác là tiếp tục đẩy mạnh cung cấp dịch vụ hành chính giáo dục trực tuyến ở mức độ cao. Hiện nay, nhiều thủ tục trong giáo dục (như: tuyển sinh đầu cấp, đăng ký dự thi, cấp chứng chỉ bằng cấp, xin cấp phép hoạt động trường lớp tư thục…) đã có thể thực hiện qua mạng, song tỷ lệ còn hạn chế. Cần nâng cấp các cổng dịch vụ công của Bộ và các sở Giáo dục và Đào tạo, tích hợp đầy đủ các thủ tục hành chính phổ biến để người dân, nhà trường có thể giải quyết nhanh gọn trên môi trường số.
Kinh nghiệm từ một số địa phương cho thấy lợi ích rõ rệt, chẳng hạn, tỉnh Bình Phước (cũ) đã chuẩn hóa 121 thủ tục lĩnh vực giáo dục lên dịch vụ công trực tuyến mức 4 (đạt 100%), giúp việc xử lý hồ sơ nhanh chóng và minh bạch hơn rất nhiều. Dịch vụ công trực tuyến không chỉ tạo thuận lợi cho người dân, giảm thời gian và chi phí đi lại mà còn giảm tải cho bộ máy quản lý, hạn chế tiếp xúc trực tiếp dễ nảy sinh tiêu cực.
Thứ tư, song song với chuyển đổi số, vấn đề bảo mật thông tin trong ngành giáo dục phải được đặc biệt coi trọng. Dữ liệu giáo dục (hồ sơ học sinh, giáo viên, kết quả học tập, thông tin cá nhân…) nếu bị lộ lọt có thể gây hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy, Nhà nước cần sớm ban hành và thực thi các quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân trong giáo dục, tuân thủ Luật An ninh mạng và Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có động thái tích cực khi ban hành Công văn số 4567/BGDĐT-CNTT ngày 22/8/2024 yêu cầu các đơn vị giáo dục tăng cường bảo vệ dữ liệu và an toàn thông tin mạng. Tất cả các sở, trường học phải rà soát hệ thống, áp dụng biện pháp kỹ thuật cần thiết, thường xuyên kiểm tra, vá lỗ hổng để tránh nguy cơ lộ, mất dữ liệu. Quán triệt trách nhiệm của người đứng đầu trong việc bảo mật thông tin, quy định rõ việc xử lý nghiêm cá nhân, tổ chức để xảy ra vi phạm.
5. Tăng cường nguồn lực và sử dụng hiệu quả ngân sách giáo dục
Đầu tư cho giáo dục luôn là khoản đầu tư sinh lời cao nhất cho tương lai, nhưng cũng đòi hỏi nguồn lực rất lớn. Để quản lý giáo dục hiệu quả, Nhà nước phải vừa bảo đảm có đủ nguồn lực, vừa phân bổ và sử dụng nguồn lực hợp lý.
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển giáo dục, thể hiện qua cam kết tối thiểu 20% ngân sách nhà nước dành cho lĩnh vực này (mục tiêu đã được ghi vào Luật Giáo dục hiện hành). Tuy nhiên, mục tiêu 20% chưa được thực hiện đầy đủ trong thập kỷ qua. Để khắc phục, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp cần phối hợp chặt chẽ với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngay từ khâu dự toán ngân sách hàng năm. Việc phân bổ ngân sách phải ưu tiên đúng trọng tâm, trọng điểm, theo các chiến lược và chương trình phát triển giáo dục đã đề ra. Chẳng hạn, ưu tiên vốn cho các chương trình phổ cập giáo dục mầm non, đổi mới chương trình, sách giáo khoa, chuyển đổi số trong trường học, đào tạo nâng chuẩn giáo viên…; ưu tiên ngân sách cho những vùng còn khó khăn (miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số) để thu hẹp khoảng cách giáo dục. Cần tránh tình trạng đầu tư dàn trải, mỗi nơi một ít dẫn đến nguồn lực bị loãng mà không tạo được chuyển biến đáng kể nào.
Trong quản lý tài chính công, ngành Giáo dục cần chuyển từ tư duy “xin – cho” sang tư duy “đặt hàng theo kết quả”. Phân bổ ngân sách cần gắn với các kết quả đầu ra cụ thể mà đơn vị sử dụng ngân sách cam kết đạt được. Hiện tượng phổ biến lâu nay là ngân sách giáo dục thường được chia theo công thức bình quân mà ít tính đến hiệu quả sử dụng. Do đó, QLNN có thể thí điểm áp dụng cơ chế ngân sách theo kết quả, đặt ra các chỉ số KPI về giáo dục (tỷ lệ trường đạt chuẩn, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông, điểm thi bình quân, tỷ lệ sinh viên có việc làm sau tốt nghiệp…) cho từng địa phương, đơn vị. Mức ngân sách cấp cho năm tiếp theo sẽ xem xét dựa trên mức độ hoàn thành các chỉ tiêu năm trước. Cơ chế này sẽ khuyến khích các nơi sử dụng ngân sách hiệu quả hơn, tránh phung phí.
Việt Nam cần xây dựng cơ chế phân bổ ngân sách minh bạch gắn với hiệu quả đầu ra, thay vì chỉ phân bổ ngân sách một cách cơ học. Cần tăng cường công tác kiểm toán, công khai các báo cáo ngân sách giáo dục để người dân và đại biểu dân cử cùng giám sát.
Ngoài ngân sách nhà nước, cần khai thác nguồn lực xã hội cho giáo dục. Nghị quyết số 29 đã chỉ rõ Nhà nước khuyến khích xã hội hóa giáo dục, huy động mọi tầng lớp tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Tuy nhiên, xã hội hóa phải được hiểu đúng đắn, không phải là thương mại hóa giáo dục mà là quá trình huy động toàn xã hội cùng đóng góp một cách minh bạch, có trách nhiệm vào giáo dục; huy động sự tham gia của tư nhân, cộng đồng nhưng Nhà nước vẫn giữ vai trò điều phối, bảo đảm công bằng và định hướng vì lợi ích công.
QLNN hiệu quả thông qua các chính sách khuyến khích phù hợp để thu hút nguồn lực xã hội. Nhiều nước phát triển có các mô hình rất tốt về hợp tác công – tư trong giáo dục, Việt Nam cũng có thể nghiên cứu áp dụng những mô hình phù hợp. Khi kêu gọi xã hội hóa, Nhà nước phải đặc biệt cảnh giác với xu hướng thương mại hóa, chạy theo lợi nhuận thuần túy. Giáo dục công lập cốt lõi vẫn phải được bảo vệ, bảo đảm cơ hội học tập cho mọi người dân, nhất là nhóm yếu thế.
Trong bối cảnh hội nhập, Việt Nam nên chủ động tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ từ quốc tế cho giáo dục. Các khoản viện trợ không hoàn lại, vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), UNESCO, UNICEF… là nguồn tài chính và tri thức quý báu. Cần biết tích hợp nguồn lực ngoài nước vào kế hoạch phát triển giáo dục một cách thông minh, tránh chồng chéo. Mỗi dự án hợp tác quốc tế phải được thiết kế sao cho phù hợp với ưu tiên quốc gia và có tính bền vững sau khi dự án kết thúc. Khi tiếp nhận dự án đào tạo giáo viên của UNESCO, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đồng bộ với chương trình nâng chuẩn giáo viên trong nước, để sau dự án, những giáo viên được đào tạo có thể phát huy hiệu quả lâu dài. Hay khi vay vốn WB xây trường học, địa phương cần chuẩn bị sẵn kế hoạch sử dụng và bảo trì để công trình phục vụ tốt trong nhiều thập kỷ.
6. Đổi mới công tác thanh tra, kiểm định, bảo đảm chất lượng
Thứ nhất, cần tiếp tục phát triển mạng lưới các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục độc lập. Hiện nay đã có một số trung tâm kiểm định trường học, kiểm định chương trình đào tạo… nhưng cần nâng cao năng lực và tính độc lập của các đơn vị này. Các trung tâm kiểm định nên hoạt động theo các tiêu chuẩn quốc tế để kết quả đánh giá có giá trị và được thừa nhận rộng rãi. Bên cạnh đó, cơ quan khảo thí quốc gia (phụ trách các kỳ thi quan trọng, như: thi tốt nghiệp trung học phổ thông, thi PISA, TIMSS…) phải được đầu tư để vận hành chuyên nghiệp. Kết quả các kỳ đánh giá, kiểm định chính là thước đo khách quan về chất lượng giáo dục của từng địa phương, từng cơ sở. Nhà nước có thể dùng các dữ liệu này để đánh giá hiệu quả quản lý giáo dục, nơi nào chất lượng đi xuống, tỷ lệ tốt nghiệp thấp, nhiều trường không đạt chuẩn… thì rõ ràng công tác quản lý, chỉ đạo ở đó có vấn đề, cần chấn chỉnh.
Thứ hai, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các sở nên tăng cường thanh tra đột xuất khi phát hiện dấu hiệu vi phạm ở cơ sở, thay vì chỉ báo trước và đi theo lộ trình cố định. Các cuộc thanh tra cũng nên tập trung vào chất lượng và tính liêm chính trong giáo dục, thanh tra việc thực hiện chương trình, đạo đức nhà giáo, tình trạng lạm thu học phí, dạy thêm học thêm sai quy định, bạo lực học đường, tài chính trường học… Cần ứng dụng công nghệ để tăng hiệu quả giám sát. Có thể thiết lập đường dây nóng, hộp thư điện tử để học sinh, phụ huynh tố giác các hiện tượng tiêu cực trong nhà trường. Khi nhận được phản ánh, cơ quan quản lý phải vào cuộc xác minh và xử lý nghiêm, công bố công khai kết quả xử lý để răn đe.
Thứ ba, cần thiết lập các kênh để xã hội tham gia giám sát, đóng góp ý kiến cho giáo dục. Ở phạm vi địa phương, có thể phát huy chức năng của Hội đồng giáo dục các cấp (được quy định trong Luật Giáo dục) với sự tham gia của đại diện chính quyền, nhà giáo, phụ huynh, đoàn thể… họp định kỳ để thảo luận kế hoạch giáo dục địa phương, phản biện các chủ trương và kiến nghị giải pháp sát thực tế. Tại mỗi trường học, Ban đại diện cha mẹ học sinh cũng cần được tạo điều kiện hoạt động thực chất hơn, có tiếng nói trong việc xây dựng môi trường sư phạm, phối hợp nhà trường – gia đình giáo dục học sinh. Ở tầm vĩ mô, Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể tổ chức các đợt lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo chính sách giáo dục (tương tự như lấy ý kiến về dự thảo luật, chương trình giáo dục phổ thông tổng thể thời gian qua) để huy động trí tuệ xã hội.
7. Phát huy hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục trong mối quan hệ phát triển đất nước
Trong nền kinh tế tri thức hiện đại, lợi thế cạnh tranh của quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng nguồn nhân lực. Quản lý giáo dục hiệu quả giúp hệ thống giáo dục cung cấp đầu ra là những thế hệ lao động có tri thức, kỹ năng và tính sáng tạo cao. Chính lực lượng lao động có tay nghề, có tri thức là chìa khóa dẫn tới năng suất lao động tăng và tăng trưởng kinh tế đất nước bền vững.
Những quốc gia đầu tư mạnh mẽ và quản lý tốt giáo dục thường vươn lên dẫn đầu về kinh tế. Ngược lại, nước nào bỏ quên giáo dục sớm muộn sẽ tụt hậu. Muốn đạt mục tiêu trở thành nước phát triển thu nhập cao, chúng ta không có con đường nào khác ngoài việc nâng tầm giáo dục, tạo ra bước nhảy vọt về chất lượng nhân lực và năng suất lao động. QLNN cần làm cho hệ thống giáo dục vận hành thông suốt, hiệu quả, tránh lãng phí nhân tài.
Lịch sử thế giới cung cấp nhiều ví dụ sinh động về vai trò quyết định của giáo dục đối với sự thịnh vượng quốc gia, như: Hàn Quốc sau chiến tranh những năm 50 thế kỷ XX là một nước nghèo nàn nhưng nhờ đặt giáo dục làm ưu tiên số một, Chính phủ Hàn Quốc đã xóa mù chữ nhanh chóng, phổ cập giáo dục và đầu tư mạnh cho khoa học kỹ thuật. Chỉ vài thập kỷ sau, Hàn Quốc đã sở hữu lực lượng lao động trình độ cao, tạo nên “kỳ tích sông Hàn”.
Phần Lan – quốc gia Bắc Âu nhỏ bé vươn lên có hệ thống giáo dục vào hàng xuất sắc nhất thế giới, học sinh Phần Lan dẫn đầu các kỳ đánh giá PISA và nền kinh tế Phần Lan cũng thuộc nhóm thịnh vượng, sáng tạo hàng đầu. Singapore từ khi lập quốc cũng coi giáo dục là chìa khóa “sinh tử” để biến một đảo quốc tài nguyên ít ỏi thành trung tâm tài chính, công nghệ cao của châu Á. Những câu chuyện thành công của các quốc gia này cho thấy, Nhà nước phải kiên định đầu tư và cải tổ giáo dục, quản lý hệ thống giáo dục một cách minh bạch, quyết liệt để tạo ra bệ phóng nhân lực cho nền kinh tế. Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng, nếu quản lý tốt để giáo dục phát huy hết vai trò, biến lực lượng dân số trẻ thành nguồn nhân lực chất lượng thì cơ hội cất cánh sẽ mở rộng.
Giáo dục không chỉ góp phần làm giàu kinh tế mà còn tiết kiệm chi phí xã hội to lớn bằng cách ngăn ngừa các tệ nạn, tội phạm. Người dân có học thức, có kỹ năng nghề nghiệp sẽ dễ tìm việc làm, thu nhập ổn định, ít sa vào tệ nạn hơn, từ đó giảm gánh nặng cho hệ thống phúc lợi và tư pháp. Người xưa có câu “Khai dân trí, chấn dân khí”, hay một phương châm quen thuộc “thêm trường học, bớt nhà tù”. Mỗi ngôi trường được mở ra đồng nghĩa với thêm cơ hội cho trẻ em trưởng thành là người công dân có ích, thay vì trượt dài vào con đường phạm pháp. Xây dựng nhiều trường học để phòng ngừa tội phạm, giảm chi phí cho lực lượng công an, tư pháp. Một xã hội được giáo dục tốt cũng là xã hội đề cao pháp luật, trật tự kỷ cương, ổn định và hòa bình. Tình hình an ninh trật tự tốt lại tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư, phát triển kinh tế.
Ngày nay, sự thịnh vượng của quốc gia không chỉ được đánh giá bằng chỉ số GDP mà còn bằng Chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số hạnh phúc, mức độ hài lòng của người dân. Giáo dục đóng góp vào hầu hết các chỉ số này. HDI gồm các tiêu chí về tuổi thọ, thu nhập và giáo dục (trình độ học vấn), trong đó giáo dục chiếm một trọng số lớn. Giáo dục cũng nâng cao dân trí, giúp người dân ý thức hơn về sức khỏe, môi trường, quyền lợi của mình, gián tiếp cải thiện chất lượng sống và hạnh phúc xã hội. Có thể nói, hiệu quả quản lý giáo dục chính là chìa khóa để đạt được các mục tiêu phát triển con người. Nếu QLNN giáo dục tốt, chúng ta sẽ thấy các chỉ số như tỷ lệ biết chữ của người lớn khoảng 100%, tỷ lệ thanh niên vào đại học cao, kỹ năng của lao động xếp hạng cao trên thế giới, người dân hài lòng về dịch vụ giáo dục công… Đó chính là hình ảnh của một quốc gia thịnh vượng, văn minh. Bởi thế, Nhà nước cần coi những thành quả giáo dục là một tiêu chí quan trọng để đánh giá thành công chung của quản trị quốc gia. Giáo dục thành công thì quốc gia mới thực sự thành công.
8. Kết luận
Nâng cao hiệu quả QLNN đối với giáo dục chính là yếu tố quyết định để thúc đẩy giáo dục phát triển, kiến tạo nên một quốc gia giàu mạnh. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam phấn đấu trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Muốn vậy, giáo dục nhất định phải đi trước một bước. Giáo dục muốn phát triển thì công tác quản lý nhà nước về giáo dục phải thực sự chuyên nghiệp, hiệu quả ở trình độ cao. Đây vừa là thách thức, vừa là mục tiêu mà tất cả chúng ta, từ nhà quản lý, nhà giáo đến phụ huynh, học sinh, cần chung tay thực hiện. Khi nền giáo dục Việt Nam vào năm 2045 đạt trình độ tiên tiến hàng đầu thế giới, dân tộc ta sẽ sánh vai cùng cường quốc năm châu, quốc gia hùng cường thịnh vượng. Giáo dục chính là chìa khóa vàng mở cánh cửa tương lai đó, với điều kiện chúng ta phải biết giữ chìa khóa trong tay, quản lý và sử dụng nó một cách hiệu quả nhất.
Chú thích:
1. Gần 24 triệu học sinh Việt Nam đã được số hóa thông tin. https://vtv.vn/giao-duc/gan-24-trieu-hoc-sinh-viet-nam-da-duoc-so-hoa-thong-tin-501702.htm.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Quốc hội (2019). Luật Giáo dục năm 2019.
3. Quốc hội (2018). Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung năm 2018.