Công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường tại nước CHDCND Lào – thực trạng và giải pháp

Sengpanya Rattanavong
NCS Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm qua, Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào luôn coi trọng công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường, xem đây là nhiệm vụ gắn liền với sứ mệnh lịch sử là bảo vệ và xây dựng đất nước trong thế kỷ XXI. Công tác này không chỉ là nền tảng để phát triển bền vững mà còn phục vụ trực tiếp cho các ngành kinh tế quan trọng, như du lịch và khai khoáng. Bài viết hệ thống hóa quan niệm về bảo vệ tài nguyên và môi trường; phân tích thực trạng, nguyên nhân của những hạn chế; đồng thời, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường giai đoạn tới. 

Từ khóa: Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường trở thành một trong những nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Đối với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, quốc gia có đặc điểm địa hình chủ yếu là đồi núi, giàu tài nguyên rừng và khoáng sản, vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. Những năm qua, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, coi đây là nền tảng để phục vụ cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước trong thế kỷ XXI.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường tại Lào vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các hoạt động khai thác tài nguyên chưa đi đôi với bảo vệ môi trường, tình trạng chặt phá rừng, khai khoáng tự phát và tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng môi trường sống, sinh kế của người dân cũng như định hướng phát triển bền vững của đất nước. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, phân tích thực trạng, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân, đồng thời đề xuất các giải pháp khả thi, phù hợp với điều kiện cụ thể của Lào là yêu cầu cấp thiết.

2. Quan niệm về công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường

Tài nguyên bao gồm các nguồn vật chất và năng lượng mà con người có thể khai thác để sản xuất các sản phẩm và dịch vụ. Tài nguyên được hình thành thông qua các quá trình tự nhiên, như: quá trình địa chất, sinh học và hóa học cũng như tồn tại trong môi trường tài nguyên mà không có sự can thiệp lớn từ con người. Đồng thời, môi trường là các yếu tố tự nhiên và nhân tạo được sinh ra theo tự nhiên hoặc do con người thành lập ra với mục đích nào có mối liên quan và tác động với nhau trong điều kiện nhất định cũng như có tác động tới sinh hoạt, sản xuất, sự vững vàng, sự phát triển của con người và tự nhiên1.

Theo đó, công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường là tổng thể các hoạt động mà toàn thể hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân nhân dân Lào thực hiện, nhằm bảo vệ, giữ gìn và khai thác theo đúng chủ trương, kế hoạch nhằm giúp đất nước tận dụng được lợi thế cũng như phát triển theo hướng bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, thống nhất về mặt quản lý của Nhà nước cùng với sự tham gia của Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân.

3. Thực trạng công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường hiện nay

Thứ nhất, công tác bảo vệ tài nguyên khoáng sản.

Trong giai đoạn 2021 – 2024, ngành Năng lượng và Mỏ đã đóng góp rất lớn vào việc công tác hoàn thiện và ban hành 3 luật, như: Luật Điện lực, Luật Khoáng sảnLuật An toàn giao thông đường bộ cũng như xây dựng Chiến lược phát triển điện lực quốc gia đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2040 và chiến lược phát triển khoáng sản đến năm 2030 và hơn 100 văn bản dưới luật có liên quan. Đồng thời, Chính phủ đã thực hiện 6 mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm khác nhau trong Kế hoạch phát triển năng lượng và mỏ 5 năm (2021 – 2025) như điều tra, lập thông tin cơ bản về địa chất, khoáng sản và đánh giá tài nguyên khoáng sản trên toàn quốc; đề ra các chính sách quản lý và phát triển khoáng sản nhằm mang lại lợi ích tối đa theo định hướng xanh, bền vững2.

Bên cạnh đó, trong lĩnh vực địa chất, khoáng sản đã tập trung nghiên cứu, thăm dò, xây dựng chính sách quản lý, điều hành và phát triển khoáng sản nhằm tối đa hóa lợi ích theo hướng xanh là mục tiêu thứ 8 trong Kế hoạch phát triển ngành Năng lượng và Khai khoáng 5 năm lần thứ 9 (giai đoạn 2021 – 2025) của Bộ Năng lượng và Mỏ. Qua đó, đã có 367 công ty và 471 hoạt động được đầu tư vào các lĩnh vực thăm dò và khai thác, nghiên cứu khả thi kinh tế kỹ thuật, thăm dò và chế biến khoáng sản. Trong đó bao gồm 23 công ty và 25 hoạt động trong giai đoạn thăm dò, 124 công ty và 126 hoạt động trong giai đoạn thăm dò, 32 công ty và 51 hoạt động trong giai đoạn nghiên cứu khả thi kinh tế kỹ thuật, 97 công ty và 178 hoạt động trong lĩnh vực khai thác và chế biến (thường xuyên), 91 công ty và 91 hoạt động trong lĩnh vực khai thác và chế biến (thí điểm)3.

Hội nghị Năng lượng và Mỏ quốc gia năm 2024 đã đánh giá ngành Năng lượng và Mỏ đã thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình là đầu mối tham mưu cho chính phủ và các cơ quan hành chính các cấp về phát triển năng lượng và khai khoáng, tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật. Đặc biệt, ngành có 3 luật chuyên ngành, làm cơ sở cho việc triển khai công tác và quản lý ngành theo các nguyên tắc kỹ thuật chuyên ngành năng lượng và khai khoáng.

Nhờ công tác bảo vệ tài nguyên khoáng sản được thực hiện đúng với các quy định, nguyên tắc và pháp luật nên đã góp phần cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia, đóng góp vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, xây dựng cơ sở đô thị, phát triển nông thôn, chuyển đổi từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa, chuyển đổi phương thức sản xuất, chủ động giải quyết đói nghèo của Nhân dân trong cả nước. Bên cạnh những thành tựu đạt được thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, yếu kém chưa được thực hiện tốt như “chất lượng thực hiện vai trò, nhiệm vụ của chính quyền và chính quyền địa phương trong quản lý công tác năng lượng, khoáng sản chưa cao, tình hình phát triển còn mất cân đối, hiệu lực thực thi pháp luật ở một số nơi chưa cao, công tác nghiên cứu, tìm hiểu một số thông tin dự án chưa rõ ràng, súc tích, dẫn đến việc phê duyệt một số dự án còn thiếu nhất quán. Ngoài ra, việc thực hiện hợp đồng, các nghĩa vụ khác nhau của nhà đầu tư chưa đúng, chặt chẽ, thiếu sự quan tâm, kịp thời”4.

Thứ hai, công tác bảo vệ tài nguyên nước.

Để làm căn cứ cho công tác bảo vệ tài nguyên nước, những năm qua Lào đã chú trọng xây dựng, sửa đổi và ban hành luật về nước và tài nguyên nước, xây dựng luật khí tượng thủy văn và các quy định pháp luật về quản lý tài nguyên nước để bảo đảm tính thống nhất của pháp luật và các quy định về quản lý. Ngoài ra, Ban điều phối quản lý nước lưu vực các sông cũng được thành lập, qua đó đã xây dựng và thực hiện kế hoạch quản lý tổng hợp, hoàn thành thu thập dữ liệu và soạn thảo báo cáo hồ sơ lưu vực tại 10 lưu vực sông được ưu tiên phát triển. Qua đó góp phần làm cơ sở cho xây dựng quy hoạch quản lý lưu vực nước chiến lược đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt theo Nghị định số 231/CP ngày 11/5/2020.

Mặt khác, CHDCND Lào đã thành lập công viên bảo tồn quốc gia về quản lý tổng hợp tài nguyên nước tại Nam Peo, huyện Vang Vieng, tỉnh Viêng Chăn để làm nơi nghiên cứu, đào tạo, tham quan học tập, trao đổi bài học và nâng cao nhận thức cho người dân. Bên cạnh đó, hoàn thành khảo sát và sơ bộ nghiên cứu, thiết kế khu làm việc, văn phòng quản lý tài nguyên nước cho đội ngũ cán bộ, chuyên gia. Tuy nhiên, công tác quản lý tài nguyên nước vẫn thiếu cơ chế bảo đảm cho quản lý ở cấp vĩ mô, pháp luật chưa hoàn thiện, vai trò quản lý tài nguyên nước chưa rõ ràng, việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng khí tượng thủy văn còn thiếu ngân sách.

Thứ ba, công tác bảo vệ tài nguyên đất.

Những năm qua, Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường tập trung thực hiện các nhiệm vụ được đề ra tại Nghị định số 14/CP ngày 18/12/2022 về phân định nhiệm vụ, phân cấp trách nhiệm của các bộ, cơ quan chính quyền địa phương trong thực hiện Nghị quyết số 26/BCHTWĐ ngày 08/3/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc tăng cường công tác quản lý và phát triển đất đai trong giai đoạn mới. Giai đoạn vừa qua đã xây dựng và cập nhật một số văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho việc triển khai công tác quản lý đất đai, hoàn thành việc xây dựng 3 văn bản luật mới, như: Quyết định số 352/TTg ngày 14/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ về nhà chung cư; Hướng dẫn số 0040/BTNVMT ngày 01/12/2023 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về định giá đất đai; Quy định số 3806/BTNVMT ngày 29/12/2023 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về chuyển đổi loại đất.

Đồng thời, cải tổ Vụ Kỹ thuật của Cục Đất đai để thúc đẩy cải thiện công tác quản lý đất đai và đăng ký quyền sử dụng đất ở tất cả các tỉnh trên toàn quốc. Tăng cường kiểm tra chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện trong việc lập và sử dụng ngân sách để đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đẩy nhanh việc mua sắm, lắp ráp trang thiết bị cho đơn vị đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện theo kinh phí của dự án và ngân sách được Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định hoặc biện pháp trong quản lý tài nguyên rừng và đất đai mà Chính phủ đã và đang áp dụng chưa tập trung và chưa chặt chẽ trong thực tế triển khai. Vì vậy, tình trạng lấn chiếm rừng, nhượng đất trái phép đã lan rộng ở nhiều địa phương trong cả nước.

Thứ tư, công tác bảo vệ môi trường.

Môi trường được xem là một trong những lợi thế của Lào cũng như có vai trò quan trọng nhất trong gắn kết mối liên hệ mật thiết với ngành Du lịch của đất nước. Do vậy, thời gian qua, Chính phủ CHDCND Lào đã hoàn thành việc soạn thảo thông tư kiểm soát ô nhiễm quốc gia, sổ tay kỹ thuật về kiểm soát ô nhiễm, chất thải và hóa chất độc hại, thông tư về quản lý chất thải và hóa chất độc hại, hoàn thành việc thành lập mạng lưới chịu trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải trên toàn quốc. Cùng với đó, khuyến khích, thúc đẩy và triển khai các nghị định, hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược ở trung ương và cấp địa phương.

Đặc biệt, CHDCND Lào đã chú trọng tăng cường kiểm soát và quản lý ô nhiễm thông qua xây dựng và thực thi pháp luật; các tiêu chuẩn và hướng dẫn về phòng ngừa, kiểm soát và quản lý ô nhiễm. Xây dựng cơ sở dữ liệu toàn diện về môi trường, kiểm tra, nghiên cứu ô nhiễm, chất thải thông thường, hóa chất độc hại, nguy hiểm, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn và lượng nước thải thải ra trên địa bàn cả nước, đặc biệt tại các thành phố dọc Quốc lộ 13. Tuy đã đạt được những kết quả nhất định nhưng công tác này vẫn còn một số hạn chế thể hiện qua việc quản lý môi trường và ô nhiễm, biến đổi khí hậu còn thiếu cơ chế phối hợp với các bộ, ngành liên quan cũng như giữa các địa phương.

Thứ năm, công tác bảo vệ tài nguyên rừng.

Giai đoạn vừa qua, việc xây dựng định hướng chính sách của Đảng, Nhà nước thành các chương trình, dự án chi tiết, đưa việc thực hiện quản lý rừng và phát triển nông thôn giải quyết đói nghèo có xu hướng ngày càng tăng. Đồng thời, Bộ Nông – Lâm nghiệp đã quán triệt việc tổ chức thực hiện Thông tư số 0925/BNLN ngày 27/4/2018 về việc bổ nhiệm Ủy ban chịu trách nhiệm về các mục tiêu phát triển bền vững về lâm nghiệp, đồng thời phân chia trách nhiệm cho từng bên liên quan nghiên cứu và xác định kế hoạch công việc chi tiết.

Mặt khác, CHDCND Lào đã thực hiện hiệu quả mục tiêu 15 trong định hướng phát triển bền vững, qua đó đạt được nhiều thành tựu trong việc bảo vệ, phục hồi và thúc đẩy việc sử dụng bền vững các hệ sinh thái, quản lý rừng, chống hạn hán, phục hồi tình trạng suy thoái đất và ngăn chặn tình trạng mất đa dạng sinh học. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn trong nước, vốn vay không hoàn lại và tín dụng ngân hàng vào phát triển, giữ gìn tài nguyên rừng để giải quyết đói nghèo chưa hiệu quả như mong đợi, trọng tâm vốn vào từng địa phương chưa đồng đều, thiếu sự phối hợp hài hòa giữa các ngành liên quan, gây ra tình trạng các bên cùng làm nhưng kết quả đạt được ít, hiệu quả chưa cao.

Những kết quả đạt được trong công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường của Lào bắt nguồn từ những lý do sau:

Một là, việc sửa đổi Luật Khoáng sản đã giúp cho công tác quản lý, giám sát, thanh tra, bảo vệ tài nguyên khoáng sản được rõ ràng, đầy đủ, chính xác, rõ ràng, tập trung, minh bạch, phù hợp với nguyên tắc kinh doanh khoáng sản của quốc tế và khu vực, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phù hợp với thực tế phát triển của xã hội.

Hai là, Chính phủ Lào đã có nhiều nỗ lực và quan tâm đến công tác quản lý tài nguyên và môi trường đặc biệt là quản lý tài nguyên nước trong hệ thống sông ngòi ở ba miền của đất nước. Đặc biệt, tăng cường hợp tác về bảo vệ môi trường lưu vực sông Mekong thông qua việc hợp tác với các nước thành viên Ủy hội sông Mekong quốc tế trong việc giám sát, trao đổi thông tin thủy văn.

Ba là, việc phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương về vấn đề đất đai tiếp tục được hoàn thiện, hướng đến giảm bớt nhiệm vụ quản lý ở trung ương và giao cho các tuyến địa phương hoạt động độc lập hơn. Các sở tài nguyên và môi trường đã tăng cường quản lý, thống kê, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như tăng cường bảo vệ các khu vực đất thuộc khu bảo tồn quốc gia.

Bốn là, cơ sở vật chất kỹ thuật, trong đó có các công cụ quan trắc môi trường đã được hoàn thiện và lắp ráp đặc biệt như các trạm đo không khí, trạm tham chiếu khảo sát đo lường liên tục (COR) và các công cụ hiện trường cần thiết phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường. Ngoài ra, công tác tuyên truyền, vận động nhằm thu hút sức mạnh của mọi thành phần xã hội tham gia bảo vệ môi trường là hết sức quan trọng trong quản lý bảo vệ hiệu quả.

Năm là, cơ chế phối hợp giữa các ngành, giữa trung ương và chính quyền địa phương trong quản lý tài nguyên và bảo vệ rừng ở cấp độ vĩ mô đã được chú trọng. Đồng thời, các cơ quan đã được triển khai hệ thống giám sát, kiểm tra tài nguyên rừng nhằm cải thiện và giải quyết đúng đắn, kịp thời các vấn đề phát sinh trong bảo vệ rừng đặc biệt là rừng đầu nguồn.

Nguyên nhân của một số hạn chế về công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường là do hệ thống pháp luật trong lĩnh vực công tác bảo vệ tài nguyên nhất là khai thác khoáng sản vẫn còn chưa thực sự hoàn thiện, vẫn đang trong quá trình sửa đổi, xây dựng lại cũng như bổ sung ở một số lĩnh vực đang được chưa được thực hiện tốt như mong muốn. Do vậy, nhận thức về tầm quan trọng của bảo vệ tài nguyên khoáng sản phục vụ lợi ích cho toàn thể nhân dân vẫn là một thách thức đối với công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường ở Lào do nhiều người vẫn hiểu rằng công việc này là trách nhiệm riêng của ngành tài nguyên và môi trường5. Bên cạnh đó, việc ngăn ngừa các tác động đến môi trường nước từ các dự án phát triển gắn với quy hoạch môi trường nước toàn diện, xây dựng các tiêu chuẩn môi trường nước, xây dựng khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu. Công tác cải tiến giao đất với quy hoạch tổng thể của đất nước nhất là tại các địa phương còn chậm, việc đánh giá lại công tác cho thuê đất nhất là đối với các đối tác nước ngoài còn chưa thực hiện tốt gây ra dư luận xã hội không tốt trong nhân dân.

Ngoài ra, quá trình hiện đại hóa hệ thống quản lý đất đai vẫn còn chậm, đặc biệt là chuyển đổi số và thành lập đơn vị dịch vụ đất đai còn bất cập. Công tác quản lý môi trường bền vững chưa dựa trên cơ sở thông tin đầy đủ, hệ thống thu thập thông tin quan trắc về môi trường chưa được đầu tư hiện đại và thành hệ thống trên cả nước cũng như chưa đáp ứng tốt quy hoạch quản lý tài nguyên môi trường. Việc xác lập mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm trong vấn đề bảo vệ môi trường trước các thách thức vẫn chưa thực sự rõ ràng, chính xác. Công tác quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng, đất rừng và chống, ngăn chặn nạn lấn chiếm rừng, cháy rừng các tỉnh Borikhamxay, Xiengkhouang, Xaysomboun chưa được thực hiện tốt.

4. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường tại nước CHDCND Lào trong giai đoạn tới   

Thứ nhất, Chính phủ cần tăng cường quản lý khai thác tiềm năng kinh tế hợp lý, tiết kiệm, hiệu lực, hiệu quả, chặt chẽ theo pháp luật và 3 nguyên tắc: nghiêm minh, minh bạch, chuyên nghiệp. Giải quyết dứt điểm và hoàn thiện đề án thí điểm khai thác khoáng sản trong thời gian sớm nhất nhằm bảo đảm lợi ích chung của quốc gia. Đồng thời, đẩy nhanh việc đánh giá tích lũy khoáng sản, phân loại vùng có tiềm năng khoáng sản và phân loại tài nguyên khoáng sản theo hệ thống quốc tế ở vùng có tiềm năng khoáng sản để làm mục tiêu xác định khu vực có tiềm năng khai thác đưa vào sử dụng. Ngoài ra, đẩy nhanh việc xây dựng và hoàn thiện các luật, quy định và quy định để trở thành công cụ quản lý

Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết liên quan đến công tác bảo vệ tài nguyên nước để làm cơ sở quản lý, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị về tài nguyên nước. Thực hiện tốt quy hoạch và nhiều chính sách khác để tạo sự minh bạch, tiếp tục tạo cơ chế quản lý để giảm thiểu rủi ro, tác động tiêu cực đến các vấn đề tài nguyên nước nhất là ở các khu vực trọng điểm. Đồng thời, trong thời gian tới, cần chú trọng thực hiện Chiến lược quốc gia quản lý nước và tài nguyên nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2040.

Thứ ba, chú trọng đến công tác giám sát chuyển đổi đất đai, trong đó phải gắn với quy định pháp luật của ngành liên quan kết hợp với lĩnh vực đất đai và chú trọng kiểm tra vấn đề các cá nhân và pháp nhân mua nhiều loại đất. Đồng thời, cần giám sát việc thi hành pháp luật, việc thực hiện công tác của đảng viên, cán bộ ở cấp trung ương và địa phương bằng cách tiến hành thanh tra từ trên xuống và coi trọng công tác thanh tra nội bộ được thực hiện thường xuyên nhằm ngăn ngừa những vấn đề tiêu cực liên quan đến quyền sở hữu đất đai.

Thứ tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần kiểm tra, giám sát việc thăm dò, khai thác khoáng sản bảo đảm không ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và sinh thái. Nghiên cứu thành lập quỹ phòng chống thiên tai và quỹ nghiên cứu biến đổi khí hậu quốc gia thành một cơ chế quan trọng để ứng phó với các tác động, nghiên cứu biến đổi khí hậu và các khu vực rủi ro thiên tai. Cùng với đó, bảo đảm tăng trưởng lĩnh vực phát triển kinh tế xanh nhằm tạo điều kiện để CHDCND Lào đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.

Thứ năm, để giải quyết được vấn đề còn tồn tại trong việc quản lý và phân loại rừng trong thời gian tới, đòi hỏi các bộ liên quan cần tăng cường phối hợp với Ủy ban Môi trường quốc gia và Ủy ban Phòng chống thiên tai quốc gia nhằm tiếp tục quán triệt đến đội ngũ cán bộ chủ chốt cần quan tâm đến việc kiện toàn tổ chức bộ máy từ trung ương xuống địa phương, phân công trách nhiệm giữa trung ương và các cấp tại địa phương một cách rõ ràng. Ngoài ra, trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ tài nguyên rừng cần tiếp tục phát huy vai trò của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ các khóa đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ thuộc các cơ quan trong ngành.

5. Kết luận

Trong những năm qua, công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường tại CHDCND Lào đã đạt được những thành công nhất định trên nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, với bối cảnh cạnh tranh phát triển cùng với việc đạt được các mục tiêu phát triển, CHDCND Lào hiện đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng đối với khả năng quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường theo hướng xanh, bền vững. Do vậy, thời gian tới, cần chú trọng nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo về tài nguyên và môi trường trong hệ thống giáo dục nói chung cũng như thực hiện đồng bộ các giải pháp đã được đề ra.

Chú thích:
1. Quốc hội (2013). Luật Bảo vệ môi trường năm 2013. NXB Quốc gia, Thủ đô Viêng Chăn, tr. 2.
2. Thunthông, Getsana (2023). Chính phủ đặt 6 mục tiêu phát triển năng lượng và khoáng sản. https://kpl.gov.la/detail.aspx?id=78040
3. ການລົງທຶນສຳຫຼວດ-​ຂຸດ​ຄົ້ນ ແລະ ປຸ່ງແຕ່ງແຮ່​ທາດ ມີທັງໝົດ 471 ກິດຈະການ. https://pasaxon.org.la/kanlongthunsamlouatkhoutkhon-le-poungtenghethat-mithangmot-471-kitchakan-48.html
4. ປີ 2024 ຂະແໜງພະລັງງານ ແລະ ບໍ່ແຮ່ ສາມາດຂັບເຄື່ອນວຽກງານຫລາຍດ້ານ. https://kpl.gov.la/detail.aspx?id=90837
5. Bộ Năng lượng và Mỏ CHDCND Lào (2024). Báo cáo tổng kết năm 2023 và phương hướng hoạt động năm 2024, tr. 8.