Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp Nhật Bản

ThS. Hà Ngọc Anh
Công ty Cổ phần Win VN Group
TS. Hà Thị Thu Phương
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Nhật Bản là một trong những nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam, đặc biệt là trong các lĩnh vực chế biến, chế tạo, cơ khí, điện tử, bất động sản và dịch vụ. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội lớn, các công ty Nhật Bản tại Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức và một trong những vấn đề lớn đó là thiếu nhân sự có kỹ năng. Bài viết cung cấp thông tin về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản tại Việt Nam và các thách thức đối với nguồn nhân lực cho doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, như: xây dựng các chương trình đào tạo phù hợp tiêu chuẩn Nhật Bản, tăng cường hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, giảm chi phí tuyển dụng và mở rộng cơ hội thực tập. Những nỗ lực này sẽ giúp Việt Nam đáp ứng tốt hơn nhu cầu của hơn 3.200 doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (ước tính năm 2023) và chuẩn bị cho xu hướng tăng trưởng đầu tư Nhật Bản trong năm 2025.

Từ khóa: Nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực, doanh nghiệp Nhật Bản, doanh nghiệp FDI.

1. FDI Nhật Bản tăng mạnh

Theo cơ sở dữ liệu của B&Company, năm 2023 có hơn 3.200 doanh nghiệp Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam (chiếm hơn 15% tổng số doanh nghiệp FDI tại Việt Nam), chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn, như: Hà Nội, Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp trọng điểm tại các tỉnh, như: Đồng Nai, Bình Dương, Hưng Yên, Bà Rịa – Vũng Tàu…

Năm 2024, vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam đạt 3,5 tỷ USD, giảm hơn 48% so với năm trước, chủ yếu do các doanh nghiệp Nhật Bản nhận ra những thách thức trong môi trường đầu tư tại Việt Nam. Năm 2024, Nhật Bản đứng thứ 3 về vốn FDI đăng ký mới tại Việt Nam (chiếm 9,2%), sau Singapore (26,7%) và Hàn Quốc (18,5%).

Số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) cho thấy, tháng 01/2025, tổng vốn FDI đăng ký mới, vốn đăng ký tăng thêm và vốn góp, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 4,33 tỷ USD, tăng 48,6% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, các nhà đầu tư Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam 599,09 triệu USD, đây là tổng vốn đầu tư của 21 dự án đăng ký mới, với tổng vốn đăng ký 52,12 triệu USD; 13 dự án đăng ký điều chỉnh vốn, với số vốn tăng thêm là 529,68 triệu USD và 14 giao dịch góp vốn, mua cổ phần với tổng vốn đăng ký 17,30 triệu USD.

Kết quả đầu tư FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong tháng 01/2025 có sự tăng trưởng vượt bậc so với cùng kỳ năm 2024 với mức tăng 665% (cùng kỳ năm 2024 các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam 78,32 triệu USD). Đặc biệt, với tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam đạt gần 600 triệu USD trong tháng 01/2025 đã đưa Nhật Bản đứng thứ 3 trong tổng số 55 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam trong tháng đầu tiên của năm 2025, sau Hàn Quốc với trên 1,254 tỷ USD và Singapore với 1,244 tỷ USD. Lũy kế đến thời điểm hiện tại, các nhà đầu tư Nhật Bản đã đầu tư vài Việt Nam 5.512 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 78,28 tỷ USD, Nhật Bản cũng đứng thứ 3 trong tổng số 149 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, sau Hàn Quốc với trên 92 tỷ USD và Singapore với trên 84 tỷ USD.

FDI của Nhật Bản tại Việt Nam tập trung tại nhiều lĩnh vực, bao gồm: Công nghiệp chế biến, chế tạo; năng lượng; thương mại – dịch vụ; giáo dục; bất động sản… trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chiếm ưu thế với sự xuất hiện của nhiều tập đoàn lớn như Honda, Toyota, Canon, Yamaha,… các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam hoạt động hiệu quả và đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế – xã hội tại Việt Nam.

Theo kết quả “Khảo sát thực trạng của các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại nước ngoài năm 2024” được Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Hà Nội công bố mới đây, có tới 56,1% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam có mong muốn mở rộng kinh doanh trong 1-2 năm tới, đứng đầu khu vực ASEAN. JETRO thực hiện thông qua bảng câu hỏi về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại 20 quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á, châu Đại Dương. Trong số 5.007 doanh nghiệp trả lời hợp lệ, có 863 doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại Việt Nam, nhiều nhất trong số các quốc gia, vùng lãnh thổ tại châu Á, châu Đại Dương.

Về triển vọng lợi nhuận kinh doanh năm 2025, so với (kỳ vọng) năm 2024, có 50,4% doanh nghiệp dự báo sẽ “cải thiện”. Nhiều doanh nghiệp tiếp tục kỳ vọng vào kết quả kinh doanh khả quan tiếp nối năm 2024. Lý do cải thiện lợi nhuận kinh doanh năm 2024 của ngành chế tạo chủ yếu là do “nhu cầu tại thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa tăng”.

Ông Takeo Nakajima – nguyên Trưởng đại diện JETRO Hà Nội từng đưa ra nhận định: Việt Nam là quốc gia được các doanh nghiệp Nhật Bản ưu tiên thứ 2 về mở rộng sản xuất – kinh doanh sau Mỹ. Việt Nam là một trong số những điểm đến đầu tư cạnh tranh nhất trong khu vực châu Á hiện nay. Lý do là bởi Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có sự ổn định về chính trị và tiềm năng phát triển. Có 2 yếu tố quan trọng để doanh nghiệp lựa chọn khi quyết định đầu tư, đó là cơ hội kinh doanh và tăng trưởng kinh tế. Với các doanh nghiệp chất lượng cao thì có thêm những lợi thế về cơ sở hạ tầng và ưu tiên, ưu đãi đầu tư. Trong đó cơ hội kinh doanh vẫn được đánh giá là yếu tố quan trọng nhất. Đặc biệt, doanh nghiệp FDI Nhật Bản nói riêng và doanh nghiệp FDI nói chung đều có nhu cầu cao về nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, cắt giảm thuế, cắt giảm thủ tục hành chính… chỉ cần đáp ứng được các yêu cầu này, Việt Nam sẽ là điểm đến của doanh nghiệp FDI, trong đó, có doanh nghiệp FDI đến từ Nhật Bản.

2. Thực trạng và thách thức

Nghiên cứu thực trạng phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam do JICA thực hiện khảo sát đối với 1.000 doanh nghiệp FDI, trong đó có 390 doanh nghiệp Nhật Bản và 610 doanh nghiệp FDI khác, chi phí nhân sự được xếp là thách thức phổ biến nhất và ngày càng gay gắt hơn, đặc biệt trong ngành công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, ngành công nghệ thông tin cũng đang đối mặt với sự thiếu hụt lớn về nguồn nhân lực có tay nghề cao. Khoảng 45% các công ty được khảo sát thừa nhận rằng ngành của họ thiếu nguồn nhân lực kỹ thuật cao cho các nhiệm vụ cấp cao/kỹ thuật, 40% xác nhận do thiếu nguồn cung cấp lao động có tay nghề cao.

Thời gian gần đây, sự phát triển và mở rộng của các khu công nghiệp dẫn đến nhu cầu công nhân ngày càng tăng, và những người lao động có kỹ năng hoặc kinh nghiệm có xu hướng chuyển đổi công việc dễ dàng. Bên cạnh đó, người lao động thích ứng tuyển vào các ngành sản xuất nhẹ như điện tử, linh kiện điện tử,… hơn là các ngành sản xuất nặng. Do đó, có vẻ như tỷ lệ các công ty trong lĩnh vực sản xuất và xây dựng xác nhận, ngành này thiếu nguồn nhân lực có kỹ năng cao hơn so với các ngành dịch vụ khác. Tỷ lệ các công ty trong lĩnh vực công nghiệp chế biến/chế tạo thiếu công nhân lành nghề là 47% và xây dựng là 44%, so với 32% của các công ty nông nghiệp, 34% của ngành dịch vụ và 37% của ngành công nghệ thông tin.

Ngoài ra, theo Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) đánh giá, ngành cơ khí đòi hỏi kiến thức vững chắc về vật lý và toán học trong khi yêu cầu công việc nặng nề hơn; do đó, các công ty rất khó tuyển được nhân sự phù hợp. Bên cạnh đó, các công ty cũng ưu tiên những nhân sự có cả trình độ chuyên môn và kỹ năng mềm tốt, đặc biệt đối với các vị trí quản trị và kinh doanh; tuy nhiên, sinh viên các chuyên ngành công nghiệp lại yếu kỹ năng mềm do không được đào tạo.

Đối với ngành công nghệ thông tin, hầu hết các doanh nghiệp được phỏng vấn đều cho rằng, tỷ lệ nghỉ việc của nhân viên có kỹ năng hoặc kinh nghiệm là tương đối cao do ngành này đang nổi lên và nhiều công ty sẵn sàng đưa ra mức lương tốt hơn để tuyển dụng nhân viên có kỹ năng. Bên cạnh đó, theo VECOM, một nguyên nhân khác dẫn đến tỷ lệ nghỉ việc cao trong ngành công nghệ thông tin là do nhân viên có kinh nghiệm 1 hoặc 2 năm có xu hướng rời công ty để tự khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin như mã hóa hay giải pháp thương mại điện tử.

Về quy mô công ty, các công ty lớn dường như thiếu nhân sự có kỹ năng nhiều hơn quy mô công ty có quy mô nhỏ hơn. Các chuyên gia ghi nhận rằng các công ty lớn chủ yếu có mức lương cố định và không dễ dàng thay đổi hoặc tăng để tuyển dụng nhân sự. Trong khi các công ty vừa và nhỏ dễ dàng sửa đổi mức lương theo từng trường hợp dựa trên chất lượng nhân sự. Về vấn đề thiếu lao động lành nghề, khoảng 20% doanh nghiệp lớn không nhận thấy thiếu nguồn nhân lực này, so với 28% doanh nghiệp nhỏ và 24% doanh nghiệp vừa. Bên cạnh đó, khoảng 15% các công ty có quy mô lớn không nhận thấy việc thiếu nhân viên có kỹ năng cao và tỷ lệ này của các doanh nghiệp vừa và nhỏ lần lượt là 20% và 23%.

Một vấn đề khác, thiếu quản lý cấp trung và quản lý cấp cao trong tất cả các ngành. Thời gian gần đây, việc chuyển hay thay đổi công việc của nhân viên rất dễ xảy ra, trong khi đó, việc đào tạo nhân viên lên cấp quản lý cấp trung cần có thời gian, đặc biệt là ở miền Bắc và miền Nam nơi có nhiều cơ hội việc làm. Kết quả là, gây ra tình trạng thiếu nhân sự quản lý cấp trung hoặc cấp cao. Chỉ khoảng 20% doanh nghiệp được khảo sát có đủ quản lý cấp cao và chỉ 14% cho biết, họ có đủ quản lý cấp trung hoặc nâng cao năng lực hiệu quả cho cấp quản lý cấp trung. Các công ty cũng đang gặp khó khăn về chất lượng nhân sự, đặc biệt là vấn đề nhân sự thiếu kinh nghiệm thực tế và kỹ năng mềm. Hầu hết các công ty vẫn phụ thuộc vào việc đánh giá nhân viên mới tuyển dụng dựa trên trình độ học vấn, tuy nhiên, bằng cấp chưa phản ánh đúng năng lực của ứng viên, kể cả đối với chuyên ngành kỹ thuật, do đó gây khó khăn trong công tác tuyển dụng cho doanh nghiệp.

Khi được khảo sát về đánh giá độ tin cậy của bằng cấp giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp trong việc phản ánh chất lượng của sinh viên mới tốt nghiệp, gần 50% doanh nghiệp được khảo sát nhận thấy, bằng cấp của sinh viên mới tốt nghiệp không thể giúp họ đánh giá chất lượng của ứng viên. Ngay cả trong các ngành kỹ thuật, bằng cấp cũng không hữu ích nhiều để đánh giá sự phù hợp chất lượng của sinh viên mới tốt nghiệp với nhu cầu kỹ năng của các công ty.

Trên thực tế, có nhiều công ty hơn trong ngành sản xuất công nghiệp và công nghệ thông tin đánh giá rằng bằng cấp giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp ở một mức độ nào đó, không thể phản ánh năng lực của ứng viên. Đa số doanh nghiệp cho rằng, bằng cấp không thể phản ánh chất lượng thực tế của nguồn nhân lực, đặc biệt là về kỹ năng làm việc và kỹ năng mềm. Điều này cũng chỉ ra thực trạng tuyển dụng hiện nay, trong đó hầu hết các công ty đang sử dụng bài kiểm tra đánh giá của riêng họ để phân loại ứng viên và bằng cấp cũng được sử dụng như một công cụ khác sau bài kiểm tra đánh giá của công ty.

Theo ý kiến của các công ty, sinh viên mới ra trường được đánh giá là thiếu kinh nghiệm thực tế và kỹ năng mềm vì công tác đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp Việt Nam được coi là chủ yếu mang tính lý thuyết, không cập nhật với yêu cầu công việc thực tế, chưa trang bị cho sinh viên thái độ làm việc cần thiết. Ngoài ra, đào tạo giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hiện nay được coi là không thích ứng hiệu quả với những thay đổi của ngành công nghiệp, đặc biệt, đối với các ngành mới nổi như nền kinh tế xanh tuần hoàn, kinh doanh bền vững và bao trùm hoặc công nghệ sinh học.

Nghiên cứu sâu hơn các công ty Nhật Bản, khó khăn tương tự về nhân sự cũng được ghi nhận. Thách thức phổ biến nhất là chi phí nhân sự ngày càng tăng, kéo theo đó là nguồn cung nhân sự không đủ, đặc biệt là thiếu nhân sự quản lý cấp trung. Nhân sự thiếu kỹ năng mềm và kinh nghiệm là một trong ba thách thức hàng đầu mà các doanh nghiệp Nhật Bản phải đối mặt. Không có thống kê nào về việc so sánh mức lương giữa các doanh nghiệp Nhật Bản và mức lương trung bình trên thị trường. Ngoài ra, các công ty Nhật Bản có xu hướng yêu cầu chất lượng nhân sự tương đối cao. Ví dụ, đối với nhóm chuyên môn/kỹ thuật, các công ty thường yêu cầu kinh nghiệm, điều này khiến việc tìm kiếm ứng viên có năng lực trở nên khó khăn.

Phần lớn các công ty Nhật Bản phải đối mặt với tình trạng thiếu nguồn nhân lực lành nghề, đặc biệt là trong ngành sản xuất, xây dựng và công nghệ thông tin. Chỉ có khoảng 28% công ty Nhật Bản cho biết họ không gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn cung lao động có tay nghề cao và 25% không thiếu nguồn nhân lực có tay nghề cao. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam đều là những doanh nghiệp có quy mô lớn, nhu cầu nhân lực tương đối lớn. Các công ty chủ yếu đối mặt với tình trạng khó khăn về cung ứng lao động do số lượng tuyển dụng quá lớn, đặc biệt là tuyển dụng trong thời gian cao điểm. Ngoài ra, do số lượng lớn các công ty công nghệ thông tin khiến cho việc cạnh tranh tuyển dụng trở nên gay gắt hơn, các công ty sẵn sàng trả mức lương cao để thu hút nhân lực, điều này đã đẩy các công ty vào tình trạng tăng chi phí nhân sự.

Ngoài ra, các công ty Nhật Bản còn gặp khó khăn hơn trong việc tuyển dụng quản lý cấp trung với hơn một nửa số công ty Nhật Bản được khảo sát (54%) đồng ý với thực tế đó. Ứng viên phù hợp với vị trí quản lý cấp trung thường mong đợi mức lương cao và cơ hội thăng tiến nhanh nhưng các doanh nghiệp Nhật Bản chủ yếu có chính sách tăng lương hằng năm rất thấp, khoảng 10%/ năm. Hơn nữa, các công ty Nhật Bản có nhân sự cấp quản lý tương đối ổn định, nhân sự cấp quản lý hầu hết được chuyển từ công ty mẹ hoặc trụ sở chính tại Nhật Bản sang chi nhánh Việt Nam nên cơ hội thăng tiến cho cấp trung là tương đối thấp.

Trong bối cảnh mới, doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực đều cần nhân sự có các kỹ năng mềm như làm việc nhóm và khả năng giải quyết vấn đề. Bên cạnh các kỹ năng cần thiết như kỹ thuật, kiến thức chuyên môn và ngôn ngữ, yêu cầu đối với nhân sự trong tương lai còn có khả năng giải quyết vấn đề, kiến thức công nghệ thông tin – truyền thông, khả năng học tập chủ động, kỹ năng sáng tạo. Kỹ năng mềm là yêu cầu được ưu tiên hàng đầu đối với người lao động hiện nay, dù ở bất kỳ vị trí nhân sự nào. Đặc biệt, đối với cấp độ quản lý, các kỹ năng liên quan tới quản lý gồm kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng quản lý tổ chức và kỹ năng đàm phán là yêu cầu bắt buộc. Trong khi đó, đối với các vị trí nhân viên kỹ thuật, nhân sự chuyên môn thì kiến thức và kỹ năng ngành quan trọng hơn, sau đó là yêu cầu kỹ năng mềm liên quan tới năng lực hợp tác, làm việc nhóm và kỹ năng giải quyết vấn đề.

Nghiên cứu của JICA cho biết, điểm yếu lớn nhất của sinh viên tốt nghiệp đại học là thiếu các kỹ năng mềm, kỹ năng nhận thức nâng cao và kỹ năng chuyên ngành. Hầu hết sinh viên tốt nghiệp đại học thường có kiến thức cơ bản, khả năng ngôn ngữ và kỹ năng công nghệ thông tin, những điều này dường như giúp họ đứng ở vạch xuất phát nhưng chưa đủ cho yêu cầu công việc thực tế. Mặc khác, sinh viên tốt nghiệp còn thiếu kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng kỹ thuật so với nhu cầu của doanh nghiệp. Do đó, hầu hết người sử dụng lao động cần phải nỗ lực tổ chức các hoạt động đào tạo tại chỗ cho nhân sự được tuyển dụng. Bên cạnh đó, các xu hướng phát triển công nghiệp toàn cầu được cho là có ảnh hưởng đến nhu cầu nhân sự trong tất cả các ngành.

Trong tương lai, 5 yêu cầu hàng đầu là kỹ năng kỹ thuật/chuyên ngành, kỹ năng giải quyết vấn đề, kiến thức và kỹ năng công nghệ thông tin – truyền thông, ngôn ngữ tiếng Anh và kỹ năng học tập chủ động. Dưới ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu và công nghiệp, các kỹ năng chuyên môn kỹ thuật vẫn được ưu tiên hàng đầu trong khi các kỹ năng nhận thức vẫn có tầm quan trọng cao. Bên cạnh đó, kỹ năng sáng tạo nổi lên như một trong những yêu cầu kỹ năng quan trọng nhất đối với thị trường lao động trong tương lai.

Đối với yêu cầu về bằng cấp, hiện nay, bằng tốt nghiệp đại học là yêu cầu phổ biến nhất đối với các cấp quản lý, nhân viên kỹ thuật/nghiệp vụ và nhân viên văn phòng. Trong khi đó, bằng cấp giáo dục nghề nghiệp chưa được các nhà tuyển dụng coi trọng, hầu hết công ty được khảo sát không yêu cầu bất kỳ bằng cấp nghề nào khi tuyển dụng lao động phổ thông/công nhân. Tuy nhiên, trong tương lai, yêu cầu bằng cấp cũng sẽ trở nên quan trọng hơn khi các doanh nghiệp yêu cầu cao hơn về bằng cấp, trình độ ở tất cả các nhóm nhân sự; trình độ trên đại học được yêu cầu cao hơn đối với cán bộ quản lý, bằng cấp giáo dục nghề nghiệp được yêu cầu cao hơn đối với lao động phổ thông/công nhân. 

3. Một số giải pháp

Thứ nhất, đào tạo kỹ năng chuyên môn theo tiêu chuẩn Nhật Bản. Tập trung vào các ngành nghề Nhật Bản có nhu cầu cao như công nghệ thông tin, cơ khí, điện tử, điều dưỡng, xây dựng và nông nghiệp công nghệ cao. Đồng thời, xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ năng Nhật Bản, ví dụ: kỹ năng đo kiểm cơ khí hoặc phát triển phần mềm theo chuẩn Nhật. Đồng thời, hợp tác giữa các trường đại học Việt Nam và doanh nghiệp Nhật Bản để phát triển chương trình đào tạo cử nhân định hướng thị trường Nhật, tập trung vào công nghệ thông tin và kỹ thuật theo tiêu chuẩn doanh nghiệp (ví dụ: chương trình tại VKU với SYSTEM EXE VN, chuyên phát triển nhân lực công nghệ). Hợp tác với các tổ chức như JICA, JETRO hoặc các trường đại học Việt Nam (Đại học Việt Nhật, Đại học Bách Khoa) để thiết kế khóa học phù hợp với yêu cầu thực tế; áp dụng mô hình đào tạo tại chỗ (on-the-job training) để người lao động làm quen với công việc thực tế.

Rèn luyện kỹ năng mềm và văn hóa làm việc Nhật Bản thông qua đào tạo về thái độ làm việc, tinh thần trách nhiệm, kỹ năng mềm (quản lý, lãnh đạo) và hiểu biết văn hóa Nhật Bản để dễ dàng hòa nhập. Chương trình mới cho lao động Việt Nam tại Nhật Bản tập trung xây dựng “kế hoạch việc làm để phát triển kỹ năng” trong 3 năm, bao gồm đào tạo nghề nghiệp và mở rộng cơ hội.

Thứ hai, nâng cao trình độ tiếng Nhật cho người lao động. Xây dựng chương trình đào tạo tiếng Nhật chuyên ngành: phát triển các khóa học tiếng Nhật kết hợp với thuật ngữ chuyên môn theo ngành nghề (cơ khí, công nghệ thông tin, điều dưỡng, xây dựng) để đáp ứng yêu cầu JLPT N3-N2, mức độ cần thiết cho các vị trí kỹ thuật và dịch vụ tại doanh nghiệp Nhật Bản. Để thực hiện giải pháp này cần hợp tác với các trường đại học như Đại học Việt Nhật, VKU, hoặc các trung tâm đào tạo tiếng Nhật (như Trung tâm Nhật ngữ Sakura) để thiết kế chương trình học tích hợp, ví dụ: tiếng Nhật kỹ thuật cho ngành cơ khí hoặc công nghệ thông tin. Các khóa học cần bao gồm từ vựng chuyên ngành, tình huống giao tiếp thực tế tại công sở và chuẩn bị cho kỳ thi JLPT.

Tăng cường hỗ trợ tài chính và học bổng: cung cấp học bổng hoặc hỗ trợ học phí cho các khóa học tiếng Nhật, đặc biệt cho lao động tham gia chương trình thực tập sinh kỹ thuật (TTSKT) hoặc visa kỹ năng đặc định (Tokutei Ginou). Theo đó, cần tận dụng các chương trình hỗ trợ từ JICA, học bổng MEXT hoặc các quỹ của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (như: Mitsubishi, Sumitomo) để giảm chi phí học tiếng Nhật (hiện khoảng 20-50 triệu đồng/khóa N3-N2). Ví dụ, chương trình của VKU cung cấp giảng viên tiếng Nhật thường trực và hỗ trợ học phí cho sinh viên. Tăng cường sử dụng các nền tảng học trực tuyến, ứng dụng AI và công nghệ thực tế ảo (VR) để tạo môi trường học tiếng Nhật tương tác, mô phỏng tình huống làm việc thực tế tại doanh nghiệp Nhật Bản, cần tăng cơ hội thực hành tiếng Nhật qua thực tập và trao đổi. Kết hợp học tiếng Nhật với các chương trình thực tập tại doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam hoặc tại Nhật giúp người lao động thực hành ngôn ngữ trong môi trường làm việc thực tế.

Thứ ba, rèn luyện văn hóa làm việc và kỹ năng mềm theo hướng đào tạo về tác phong làm việc chuyên nghiệp, tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật và văn hóa Kaizen (cải tiến liên tục) hoặc 5S (sàng lọc, sắp xếp, sạch sẽ, săn sóc, sẵn sàng). Đồng thời, giáo dục về văn hóa Nhật Bản, bao gồm: giao tiếp, phong tục và quy tắc ứng xử trong môi trường làm việc Nhật Bản; xây dựng kỹ năng làm việc nhóm và giải quyết vấn đề, đáp ứng yêu cầu cao về đạo đức nghề nghiệp.

Thứ tư, tăng cường hợp tác giữa nhà trường, doanh nghiệp và Chính phủ. Thiết lập quan hệ đối tác giữa các cơ sở giáo dục và doanh nghiệp Nhật Bản thông qua việc xây dựng các biên bản ghi nhớ (MoU) giữa các trường đại học, cao đẳng nghề và doanh nghiệp Nhật Bản để phát triển chương trình đào tạo theo nhu cầu thực tế, tập trung vào các ngành, như: công nghệ thông tin, cơ khí, điều dưỡng và sản xuất. Ví dụ các mô hình thành công, như: hợp tác giữa Đại học Đông Á với Sun Frontier hoặc Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông Việt – Hàn (VKU) với SYSTEM EXE VN, nơi doanh nghiệp tham gia xây dựng chương trình giảng dạy, cung cấp thiết bị và cơ hội thực tập. Thành lập các trung tâm đào tạo tại các khu công nghiệp lớn (như VSIP, Nomura) do doanh nghiệp Nhật Bản tài trợ, kết hợp với các trường, như Đại học Bách Khoa để đào tạo kỹ năng chuyên môn và tiếng Nhật.

Chính phủ Việt Nam cần đóng vai trò trung gian, xây dựng các chính sách ưu đãi và khung pháp lý hỗ trợ hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp Nhật Bản. Cụ thể: Chính phủ ban hành các chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào đào tạo nhân lực, như xây dựng trung tâm đào tạo hoặc cung cấp học bổng. Thành lập các ban điều phối quốc gia, phối hợp với JICA và JETRO, để kết nối cung – cầu nhân lực, ví dụ: thông qua Diễn đàn Hợp tác nguồn nhân lực nông nghiệp Việt – Nhật. Hỗ trợ các chương trình ODA của Nhật Bản (như JDS, MEXT) để đào tạo nhân lực chất lượng cao và chuyển giao công nghệ giáo dục.

Thiết kế các chương trình đào tạo song ngữ (Việt – Nhật) và tích hợp thực hành tại doanh nghiệp, tập trung vào các ngành nghề ưu tiên của Nhật Bản (công nghệ thông tin, cơ khí, điều dưỡng). Điển hình, như: áp dụng mô hình KOSEN (Nhật Bản) tại các trường nghề Việt Nam với sự hỗ trợ của JICA để đào tạo kỹ thuật viên có kỹ năng thực hành cao; doanh nghiệp Nhật Bản tham gia thiết kế giáo trình, cung cấp giảng viên khách mời hoặc hướng dẫn viên tại chỗ, như chương trình của Đại học Việt Nhật với các công ty Nhật; tăng thời lượng thực tập (3-6 tháng) trong chương trình học, bảo đảm sinh viên tiếp cận quy trình làm việc chuẩn Nhật Bản (Kaizen, 5S).

Thứ năm, tăng cơ hội thực tập và trải nghiệm thực tế. Tạo điều kiện cho sinh viên và người lao động tham gia thực tập tại các doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam hoặc tại Nhật, như chương trình thực tập của Đại học Kinh tế và Tài chính (UEF). Theo đó, cần thiết lập các thỏa thuận hợp tác giữa các trường đại học, cao đẳng nghề và doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (như Panasonic, Canon, Toyota) để cung cấp cơ hội thực tập định kỳ. Ví dụ, mô hình của Đại học Kinh tế và Tài chính (UEF) đưa gần 100 sinh viên thực tập tại Nhật mỗi năm có thể được nhân rộng.

Xây dựng các chương trình thực tập ngắn hạn (3-6 tháng) tại các khu công nghiệp lớn như VSIP, Nomura (Hải Phòng, Quảng Nam) với hỗ trợ từ JETRO hoặc JICA, tập trung vào các ngành như cơ khí, công nghệ thông tin và sản xuất. Việc này sẽ giúp sinh viên làm quen với môi trường làm việc thực tế, quy trình sản xuất chuẩn Nhật Bản (Kaizen, 5S) và giảm chi phí đào tạo lại cho doanh nghiệp. Kết hợp đào tạo lý thuyết với thực hành tại doanh nghiệp để người lao động sẵn sàng làm việc ngay sau khi tốt nghiệp.

Thứ sáu, cải thiện quy trình tuyển dụng và giảm chi phí. Giảm chi phí tuyển dụng (hiện khoảng 192 triệu đồng cho lao động sang Nhật) bằng cách minh bạch hóa quy trình và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế của ILO. Tăng cường hỗ trợ từ các cơ quan quản lý để bảo đảm quyền lợi cho người lao động, bao gồm bảo hiểm, lương thưởng và điều kiện làm việc. Sử dụng AI để sàng lọc hồ sơ, phỏng vấn trực tuyến và dự báo nhu cầu nhân lực, giúp giảm chi phí tuyển dụng truyền thống (như quảng cáo, di chuyển). Xu hướng năm 2025 nhấn mạnh ứng dụng AI trong các vị trí kinh doanh và công nghệ thông tin, đồng thời, mở rộng kênh tuyển dụng trực tuyến; hợp tác với các nền tảng, như LinkedIn hoặc ứng dụng chuyên biệt để kết nối trực tiếp doanh nghiệp Nhật với lao động Việt Nam, giảm phí môi giới.

4. Kết luận

Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp Nhật Bản đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, doanh nghiệp và chính phủ. Các giải pháp cần tập trung vào việc cải thiện kỹ năng chuyên môn, ngoại ngữ, văn hóa làm việc và giảm thiểu chi phí tuyển dụng. Những mô hình hợp tác thành công, như: chương trình tại VKU hay các dự án ODA là minh chứng cho tiềm năng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng tiêu chuẩn Nhật Bản).

Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo nghiên cứu tổng thể Thực trạng phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam. https://www.jica.go.jp/vietnamese/overseas/vietnam/office/others/icsFiles/afieldfile/2025/02/13/ihrd_report_vn.pdf.
2. B&Company – Công ty nghiên cứu thị trường và tư vấn đầu tư đến từ Nhật Bản (2025), Tổng quan về các công ty Nhật Bản tại Việt Nam. https://b-company.jp/vi/overview-of-japanese-companies-in-vietnam-2.
3. Doanh nghiệp Nhật than thủ tục ở Việt Nam phức tạp. https://vnexpress.net/doanh-nghiep-nhat-than-thu-tuc-o-viet-nam-phuc-tap-4841746.html.
4. FDI Nhật Bản vào Việt Nam sẽ tăng năm 2025. https://congthuong.vn/fdi-nhat-ban-vao-viet-nam-se-tang-nam-2025-373327.html.
5. Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài năm 2024. https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/2025-1-6/Tinh-hinh-thu-hut-dau-tu-nuoc-ngoai-nam-2024-5ihdt0.aspx.
6. Việt Nam dẫn đầu khu vực tỷ lệ doanh nghiệp Nhật muốn mở rộng. https://vnexpress.net/viet-nam-dan-dau-khu-vuc-ty-le-doanh-nghiep-nhat-muon-mo-rong-4827154.html.