Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế xanh

ThS. Nguyễn Hồng Sơn
TS. Hà Thị Thu Phương
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu tố then chốt trong quá trình phát triển kinh tế xanh, đòi hỏi sự chuẩn bị toàn diện từ đào tạo, nâng cao kỹ năng đến thay đổi nhận thức. Việc đầu tư vào giáo dục, đào tạo và nâng cao kỹ năng cho người lao động sẽ giúp xây dựng một đội ngũ nhân lực mạnh mẽ, có khả năng giải quyết các thách thức môi trường và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Các biện pháp như đào tạo chuyên sâu, phát triển kỹ năng ứng dụng công nghệ, chính sách hỗ trợ và hợp tác quốc tế là những yếu tố then chốt để đạt được thành công trong lộ trình này. Trên cơ sở đánh giá tác động của việc phát triển kinh tế xanh đối với nguồn nhân lực, một số giải pháp được đề xuất nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới.

Từ khóa: Chất lượng nguồn nhân lực, nguồn nhân lực, nhân lực.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên thiên nhiên và sự gia tăng các vấn đề môi trường – xã hội, khái niệm kinh tế xanh ngày càng được quan tâm như một mô hình phát triển mới, thay thế cho mô hình “tăng trưởng trước, xử lý hậu quả sau” vốn đã bộc lộ nhiều hạn chế. Các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nền kinh tế đang phát triển, đều đang đứng trước áp lực phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, bền vững, thích ứng và có khả năng chống chịu tốt hơn trước những cú sốc từ môi trường tự nhiên cũng như thị trường toàn cầu.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 2012), kinh tế xanh là sự phát triển kinh tế bảo đảm sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm và tác động đến môi trường, tăng cường khả năng phục hồi trước biến đổi tự nhiên, đồng thời nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong việc ngăn ngừa các thảm họa thiên nhiên. Ngày nay, kinh tế xanh được hiểu theo nghĩa rộng hơn, là sự kết hợp hài hòa giữa ba trụ cột: kinh tế – xã hội – môi trường. Phát triển kinh tế xanh không chỉ hướng đến tăng trưởng kinh tế, mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao sức khỏe cộng đồng, giảm bất bình đẳng xã hội, thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và khuyến khích các mô hình sản xuất – tiêu dùng bền vững.

Thực tiễn cho thấy, kinh tế xanh không chỉ là một sự lựa chọn mà còn là xu thế tất yếu toàn cầu. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, phát triển kinh tế xanh giúp hạn chế tình trạng nóng lên toàn cầu, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đồng thời tạo ra động lực mới cho tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, kinh tế xanh mang lại khả năng hình thành hàng triệu việc làm xanh trên phạm vi toàn thế giới – những việc làm gắn liền với công nghệ sạch, năng lượng tái tạo, sản xuất ít phát thải, thân thiện với môi trường. Đây chính là cơ hội để tái cấu trúc thị trường lao động, nâng cao chất lượng việc làm và hướng tới sự công bằng, bền vững trong phát triển xã hội. Tại Việt Nam, định hướng phát triển kinh tế xanh đã được cụ thể hóa trong nhiều chiến lược và chính sách quốc gia, đặc biệt sau khi Chính phủ đưa ra cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 tại Hội nghị COP26.

Quá trình chuyển đổi sang kinh tế xanh ở Việt Nam được xem là con đường tất yếu để vừa duy trì tăng trưởng kinh tế, vừa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra nhiều thách thức lớn. Một số ngành nghề truyền thống, sử dụng nhiều lao động phổ thông có nguy cơ bị thu hẹp, làm gia tăng tình trạng thất nghiệp cục bộ. Ngược lại, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành nghề xanh sẽ đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao với trình độ chuyên môn, kỹ năng và tư duy mới để đáp ứng yêu cầu công việc.

Điều đó cho thấy, nguồn nhân lực chính là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của quá trình chuyển đổi sang kinh tế xanh ở Việt Nam. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ giúp tận dụng hiệu quả các cơ hội việc làm mới, tăng thu nhập và nâng cao đời sống người lao động, mà còn đảm bảo cân bằng cung – cầu lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao chuỗi giá trị sản xuất và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây cũng là chìa khóa để Việt Nam thực hiện được mục tiêu phát triển bền vững, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, đồng thời bảo đảm công bằng xã hội và môi trường sống cho các thế hệ mai sau. Từ những lý do đó, việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế xanh có ý nghĩa hết sức quan trọng, vừa mang tính cấp thiết trước mắt, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với con đường phát triển của Việt Nam.

2. Cơ hội và thách thức

2.1. Cơ hội

Tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới trong các ngành liên quan trực tiếp tới giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và tài nguyên. Cùng với đó là sự mở rộng nhanh chóng của các ngành nghề gắn với kinh tế xanh như năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối), xử lý môi trường, tái chế chất thải, nông nghiệp hữu cơ, xây dựng công trình xanh, giao thông vận tải thông minh… Điều này giúp nền kinh tế hình thành các lĩnh vực tăng trưởng mới, đa dạng hóa cơ cấu việc làm và giảm phụ thuộc vào những ngành nghề truyền thống sử dụng nhiều tài nguyên, phát thải lớn.

Mở ra triển vọng cải thiện thu nhập và điều kiện làm việc cho người lao động. Những lao động đáp ứng yêu cầu về việc làm xanh sẽ không chỉ có cơ hội tăng thu nhập, nâng cao mức sống mà còn được tiếp cận với môi trường làm việc hiện đại, an toàn và thân thiện hơn. Đặc biệt, tham gia vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như công nghệ môi trường, năng lượng sạch, thiết kế sản phẩm tái chế… sẽ giúp người lao động phát triển sự nghiệp lâu dài, bền vững hơn.

Nâng cao chuỗi giá trị sản xuất và khả năng cạnh tranh quốc gia. Khi nguồn nhân lực xanh tham gia vào quá trình sản xuất, họ sẽ đáp ứng được cả các yêu cầu đầu vào (chuyên môn, kỹ năng, nhận thức môi trường) và đầu ra (sản phẩm xanh, dịch vụ thân thiện môi trường). Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp trong nước nâng cao chuỗi giá trị ngành, mà còn tạo điều kiện thuận lợi để thâm nhập sâu hơn vào các thị trường quốc tế, nơi mà tiêu chuẩn xanh ngày càng trở thành rào cản kỹ thuật bắt buộc.

Thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực thích ứng của người lao động. Trong bối cảnh chuyển đổi xanh, người lao động buộc phải thường xuyên học tập, cập nhật kiến thức mới, tham gia các khóa đào tạo về công nghệ, kỹ năng xanh. Quá trình này không chỉ nâng cao chất lượng lao động mà còn hình thành một lực lượng lao động linh hoạt, có khả năng thích ứng nhanh trước sự thay đổi của công nghệ và thị trường lao động toàn cầu.

Bảo đảm cân bằng cung – cầu trên thị trường lao động, hướng tới bền vững. Nguồn nhân lực đáp ứng việc làm xanh sẽ góp phần duy trì sự ổn định của thị trường lao động cả về số lượng và chất lượng. Đây cũng là cơ sở để xây dựng thị trường lao động hiện đại, trong đó việc làm không chỉ mang lại thu nhập mà còn tạo giá trị xã hội gắn với trách nhiệm môi trường.

Mang lại lợi ích kép về thu nhập và an sinh nghề nghiệp. Các việc làm xanh thường đòi hỏi trình độ chuyên môn, kỹ năng cao hơn nhưng đổi lại, người lao động sẽ được hưởng mức lương, chế độ đãi ngộ và cơ hội thăng tiến tốt hơn. Cùng với đó, việc làm xanh từng bước thay thế các ngành nghề giản đơn, tay nghề thấp, vốn có nhiều rủi ro về sức khỏe và thu nhập bấp bênh, từ đó thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp theo hướng công bằng và bền vững.

Động lực cho đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong kinh tế xanh chính là lực lượng then chốt trong việc nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ xanh. Họ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng năng suất lao động, giảm lãng phí tài nguyên, nâng cao hiệu quả sản xuất và góp phần bảo vệ môi trường. Đây là cơ hội để Việt Nam xây dựng nền kinh tế tri thức gắn với công nghệ sạch.

Bảo đảm công bằng xã hội trong quá trình chuyển đổi. Việc đào tạo, tái đào tạo lao động theo hướng kỹ năng xanh không chỉ giúp hình thành lợi thế cạnh tranh cho nền kinh tế, mà còn tạo điều kiện cho nhóm lao động phổ thông, lao động dễ bị tổn thương có cơ hội thích ứng. Điều này giúp hạn chế rủi ro thất nghiệp, giảm chênh lệch xã hội, bảo đảm mọi tầng lớp đều có cơ hội tham gia và hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế xanh.

2.2. Thách thức

Một là, nhiều lao động bị mất việc làm trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế xanh do chưa đáp ứng được chuyên môn phục vụ cho quá trình sản xuất mới. Ngoài ra người lao động còn bị mất việc khi thu hẹp quy mô sản xuất, giảm về mặt số lượng và nâng cao về mặt chất lượng khi các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh doanh theo hướng kinh tế xanh.

Hai là, sự dịch chuyển của người lao động sang các lĩnh vực, các doanh nghiệp khác bởi xuất hiện nhiều cơ hội việc làm mới ở nhiều địa điểm khác nhau khi phát triển kinh tế xanh.

Ba là, mặc dù phát triển kinh tế xanh hướng đến phát triển bền vững trên cả 3 mặt kinh tế, xã hội, môi trường nhưng cần phải luôn có sự điều chỉnh những thay đổi để bảo đảm về mặt xã hội liên quan đến người lao động tại các địa phương có các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng phát triển xanh.

Bốn là, chưa có các chính sách cụ thể nhằm khuyến khích, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có thể đáp ứng được trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể khi chuyển đổi sang kinh tế xanh. Còn thiếu chương trình đào tạo có mục tiêu đối với những lao động mất việc làm và những lao động chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.

Năm là, người lao động còn ít cơ hội tiếp cận được với các nguồn lực như dịch vụ công về y tế, giáo dục, điều này cũng ảnh hưởng đến tâm trí, thể chất của người lao động và làm giảm chất lượng nguồn nhân lực khi phát triển kinh tế xanh.

Như vậy, phát triển kinh tế xanh tạo ra nhiều cơ hội phát triển nguồn nhân lực, tuy nhiên lao động trong cá ngành truyền thống bị thu hẹp, giảm việc làm. Cần phải có các chính sách trong ngắn hạn về đạo tào lại và hỗ trợ mức lương đối với người lao động bị ảnh hưởng do giảm việc làm. Về dài hạn, cần đào tạo từ đầu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, tay nghề cao, phù hợp với yêu cầu trong các ngành chuyển đổi sang kinh tế xanh, đa dạng hóa chương trình đào tạo theo các lĩnh vực khác nhau.

Nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi để phát triển kinh tế xanh, cần phải có sự phối hợp giữa trường học, Viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp nâng cao trình độ tay nghề, kỹ năng cho người lao động. Ngoài ra cần phải có sự hỗ trợ và thực hiện đồng bộ giữa Chính phủ, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và các cơ quan, tổ chức liên quan khác.

Ngoài ra để nguồn nhân lực đáp ứng được quá trình phát triển kinh tế xanh cần phải thay đổi và đổi mới chương trình giáo dục đào tạo nghề, kỹ năng chuyên môn theo nhu cầu chuyển đổi xanh. Hỗ trợ đào tạo lại kỹ năng làm việc cho người lao động trong các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình xanh. Hỗ trợ và giúp các doanh nghiệp nâng cao những kiến thức, nhận thức về hệ thống sinh thái, sự cần thiết phát triển kinh tế xanh và phát triển bền vững.

3. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực của Việt Nam đang ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của dân số. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2022, quy mô dân số cả nước ước đạt 100 triệu người, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người so với năm 2021. Trung bình mỗi năm có khoảng 500 nghìn người gia nhập lực lượng lao động. Riêng trong năm 2020 và 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước giảm 1,2 triệu người so với năm 2019, chủ yếu là do sự sụt giảm ở khu vực nông thôn (giảm hơn 1,1 triệu người). Trong số lực lượng lao động năm 2020, có 53,4 triệu người đang làm việc, trên 1 triệu người thất nghiệp; khoảng 17,3 triệu người (số liệu năm 2018 và 2019) không hoạt động kinh tế vì các lý do khác nhau.

Không chỉ gia tăng về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam cũng có những cải thiện rõ rệt. Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 2020), trong 10 năm (năm 2010 đến năm 2020) chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69. Bước sang năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam trong nhóm phát triển khá đứng thứ 115/191 quốc gia. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để nguồn nhân lực của Việt Nam có khả năng chuyển đổi, ứng dụng công nghệ số để xây dựng kỹ thuật số trong thời kỳ cách mạng 4.0. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập, mặc dù mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực. Điều này phản ánh những thành tựu lớn trong giáo dục phổ thông và y tế trong những năm qua. Do đó, trong giai đoạn 2000- 2017, phát triển vốn nhân lực đóng góp khoảng 1/3 tăng trưởng GDP bình quân đầu người.

Nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự cải thiện rõ rệt. Số lao động có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công việc được giao đang ngày càng tăng lên. Theo số liệu báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2020, tỷ trọng người lao động có trình độ sơ cấp chiếm 4,7%; trung cấp chiếm 4,3%; cao đẳng 3,7%; đại học trở lên 10,9%. Tỷ trọng này ở các trình độ cao đẳng và đại học ngày càng có xu hướng gia tăng, từ 8,7% trình độ đại học năm 2016 lên 10,9% năm 2020. Năm 2021, lao động đã qua đào tạo từ trình độ “sơ cấp” trở lên là 26,1%, tăng 0,8 điểm phần trăm so với năm trước đã góp phần nâng cao năng suất lao động của Việt Nam trong thời gian qua.

Theo báo cáo chỉ số phát triển con người Việt Nam (năm 2021), năng suất lao động của toàn nền kinh tế Việt Nam theo giá hiện hành ước đạt 171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động, tăng 538 USD so với năm 2020). Theo giá so sánh, năng suất lao động trong năm 2021 tăng 4,71% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2021 đạt 26,1%, cao hơn mức 25,3% của năm 2020).

Tuy nhiên, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở Việt Nam còn khá lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, thiếu công nhân có kỹ năng lao động, thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực nhưng thừa lao động thủ công, không qua đào tạo. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao đang trở thành trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Theo đó, khi so sánh với các quốc gia trong khu vực, năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức tương đối thấp và chênh lệch tuyệt đối tiếp tục xu hướng gia tăng.

Năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia, gần tương đồng với Myanmar và Lào, thấp hơn Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Trung Quốc, Thái Lan và thấp hơn rất nhiều so với Malaysia cũng như Singapore. Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào đóng góp của yếu tố vốn và lao động với mức đóng góp bình quân giai đoạn 2016 – 2020 là 54,28%, trong đó, đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này cao hơn đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Chất lượng nguồn nhân lực thấp là một trong những thách thức rất lớn của Việt Nam trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Để phát triển kinh tế – xã hội bền vững phải phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, có kỹ năng, đây cũng là một trong những đột phá chiến lược để phát triển đất nước trong thời gian tới.

Thứ nhất, đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có chất lượng giáo dục đào tạo, trọng tâm là chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị, thay đổi phương thức giáo dục đào tạo, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. 

Thứ hai, bảo đảm quy mô, cơ cấu ngành nghề đào tạo cho phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 

Thứ ba, hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút các nhà đầu tư, cả doanh nghiệp, người sử dụng lao động tích cực tham gia vào hoạt động đào tạo, phát triển kỹ năng nghề. 

Thứ tư, xây dựng các mô hình gắn kết với giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp và thị trường lao động theo từng vùng, từng địa phương phù hợp với từng nhóm đối tượng, trong đó chú trọng đối tượng đặc thù.

Thứ năm, đẩy mạnh dự báo nhu cầu về đào tạo nghề nghiệp, đặc biệt là ngành nghề khoa học và kỹ thuật công nghệ, trong đó ưu tiên công nghệ thông tin, công nghệ mới, công nghệ cao.

Thứ sáu, sắp xếp tổ chức mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, dễ tiếp cận đa dạng về loại hình, hình thức tổ chức, phân bổ hợp lý cả về cơ cấu ngành, trình độ vùng, miền và đủ khả năng đáp ứng nhu cầu về đào tạo nhân lực chất lượng cao.

4. Một số giải pháp

Một là, thực hiện có hiệu quả Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030 theo Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 05/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, đặt mục tiêu chỉ số lao động có kiến thức chuyên môn trong chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 60 nước đứng đầu vào năm 2025 và 55 nước đứng đầu vào năm 2030; tỷ lệ lao động có các kỹ năng công nghệ thông tin đạt 90% vào năm 2030. Để thực hiện được điều này và cũng là giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục – đào tạo, xác định đúng đắn chiến lược phát triển nguồn nhân lực tầm nhìn đến năm 2050.

Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách xây dựng, phát triển và quản lý nguồn nhân lực cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xanh trong điều kiện mới ở nước ta hiện nay. Trong đó, cần tập trung vào các nội dung: (1) Xây dựng một nguồn nhân lực với cơ cấu và số lượng hợp lý qua từng giai đoạn phát triển của đất nước; (2) Đào tạo và nâng cao kỹ năng số cho người lao động, bao gồm phân tích dữ liệu, sử dụng các phần mềm quản lý môi trường và công cụ số liên quan đến kinh tế xanh; (3) Xây dựng, phát triển và phát huy có hiệu quả nguồn nhân lực tại chỗ để phát triển các nội dung kinh tế – xã hội ở mỗi địa phương, ngành và lĩnh vực..; (4) Thu hút tiềm năng về nguồn nhân lực (đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao) tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Ba là, tập trung các giải pháp về giáo dục và đào tạo để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, như:

(1) Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ; triển khai các hoạt động đào tạo kiến thức, kỹ năng về khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các trường phổ thông.

(2) Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các trường, trung tâm dạy nghề trên phạm vi cả nước. Cần rà soát và tiến hành quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề trong cả nước, đặc biệt là hệ thống dạy nghề tại các địa phương; xây dựng và đầu tư nâng cấp để tạo ra hệ thống các trường dạy nghề chất lượng cao; chú trọng nâng cao trình độ của giáo viên và trang thiết bị dạy nghề đáp ứng sự phát triển của khoa học – công nghệ ngày càng phát triển của thế giới và phù hợp với yêu cầu thị trường lao động trong nước.

(3) Xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo phục vụ trực tiếp cho sự phát triển của nền kinh tế hiện đại. Cung cấp các chương trình đào tạo chất lượng cao từ cấp đại học đến sau đại học về các lĩnh vực liên quan đến khoa học môi trường, công nghệ năng lượng tái tạo, quản lý tài nguyên thiên nhiên và kinh tế xanh.

(4) Tổ chức các khóa đào tạo nghề cho lao động trong các ngành công nghiệp truyền thống để họ có thể chuyển đổi sang các ngành công nghiệp xanh.

Bốn là, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp và người lao động trong việc tự đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác phát triển nguồn nhân lực theo hướng Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động học nghề thông qua định hướng thông tin, cơ chế, chính sách. Người lao động chủ động nắm bắt thông tin, tự đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp, tiếp cận thị trường lao động, tìm kiếm việc làm.

Về phía các doanh nghiệp, do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, sẽ có những ngành nghề phải cập nhật lại kiến thức trong một thời gian ngắn, trong khi người lao động không thể quay trở lại trường để học, vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải tự tổ chức các hoạt động giảng dạy, cập nhật kiến thức ngay tại đơn vị. Sự tham gia của doanh nghiệp với vai trò người sử dụng lao động trong đào tạo không chỉ góp phần giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước về đầu tư cơ sở vật chất mà còn giúp định hướng, đào tạo những lao động có kỹ năng phù hợp với nhu cầu thị trường, nhất là đáp ứng những yêu cầu về thay đổi trong sản xuất của công nghiệp 4.0.

Năm là, khuyến khích phát triển thị trường lao động. Đẩy nhanh tốc độ phát triển thị trường lao động, giới thiệu việc làm. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển thị trường lao động từ khâu tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp, giới thiệu việc làm trong nước và xuất khẩu… tạo sự liên kết chặt chẽ giữa kết quả phát triển nguồn nhân lực với sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.

Tài liệu tham khảo:
1. Ngân hàng Thế giới – WB (2020). Báo cáo công bố Chỉ số vốn nhân lực (Human Capital Index-HCI). https://www.worldbank.org/vi/news/press-release/2020/09/16/pandemic-threatens-human-capital-gainsof-the-past-decade-new-report-says.
2. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 05/02/2021 ban hành Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động.
3. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
4. Tổng cục Thống kê (2023). Niên giám Thống kê các năm, từ năm 2019 đến năm 2022. H. NXB Thống kê, 2023.
5. Đào Xuân Lộc (2024). Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển kinh tế xanh. https://dangcongsan.vn/phat-trien-kinh-te-xanh-ly-luan-va-thuc-tien/nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-cho-qua-trinh-phat-trien-kinh-te-xanh-671701.html.