Nghiên cứu thúc đẩy ý định mua xanh của người tiêu dùng tại TP. Hồ Chí Minh

TS. Võ Thị Hương Giang
Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh
TS. Vũ Xuân Hà
TS. Lương Duy Bình
Trường Đại học Sài Gòn

(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường hiện là ưu tiên hàng đầu của các nước trên thế giới. Nghiên cứu nhằm xem xét các mối liên hệ giữa kiến thức về môi trường, độ nhạy cảm với môi trường, thái độ và ý định mua sản phẩm xanh. Kết quả nghiên cứu thông qua 382 phiếu khảo sát người tiêu dùng được đưa vào phân tích, cho thấy có mối quan hệ tích cực giữa kiến thức về môi trường, độ nhạy cảm với môi trường và thái độ đối với sản phẩm xanh. Hơn nữa, thái độ đối với sản phẩm xanh ảnh hưởng tích cực đến ý định mua hàng xanh. Cuối cùng, nghiên cứu đề xuất các hàm ý quản trị nhằm thúc đẩy hành vi mua sản phẩm xanh của người tiêu dùng tại TP. Hồ Chí Minh

Từ khóa: Ý định mua hàng xanh, thái độ đối với sản phẩm xanh, kiến thức về môi trường, độ nhạy cảm với môi trường.

1. Đặt vấn đề

Phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao mức sống hiện được xem là những ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên toàn cầu. Tuy nhiên, tình trạng sản xuất và tiêu dùng quá mức lại được coi là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến suy thoái môi trường (Chanda và cộng sự, 2023). Xã hội hiện nay tiêu thụ lượng lớn nguyên liệu thô và năng lượng, đồng thời tạo ra khối lượng lớn chất thải và chất ô nhiễm, cùng với việc khai thác các nguồn tài nguyên tái tạo ở mức độ không bền vững (Pocol và cộng sự, 2020).

Sự gia tăng nhanh chóng của các loại chất thải được xem là yếu tố chính góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm môi trường (Chanda và cộng sự, 2023). Do đó, mối quan hệ giữa sản xuất hàng loạt, hành vi tiêu dùng không bền vững và việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên là điều không thể phủ nhận (Wang và cộng sự, 2019).

Theo Hojnik và cộng sự (2019), việc thu hút khách hàng tham gia tiêu dùng bền vững vẫn là một thách thức then chốt đối với các vấn đề môi trường trong tương lai. Ở các quốc gia đang phát triển, người tiêu dùng thường thể hiện thái độ tích cực và thận trọng hơn trước vấn đề ô nhiễm môi trường, qua đó thúc đẩy sự quan tâm của họ đối với hành vi tiêu dùng bền vững (Shukla, 2019).

Nhiều nghiên cứu đã tiếp cận ý định mua sắm xanh từ những góc độ khác nhau (Asif và cộng sự, 2018; Shukla, 2019; Lavuri, 2022), đồng thời áp dụng đa dạng phương pháp để khám phá ý định tiêu dùng sản phẩm xanh tại các quốc gia đang phát triển như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Malaysia (Chanda và cộng sự, 2023). Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế trong các nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của kiến thức môi trường, mức độ nhạy cảm với môi trường và thái độ đối với sản phẩm xanh đến ý định mua hàng xanh (Cheng và Wu, 2015).

Gần đây, Việt Nam đã chú trọng đồng thời vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Nhiều nghiên cứu tại Việt Nam về hành vi mua sắm xanh cho nhận thức ảnh hưởng đến ý định mua của người tiêu dùng, mặc dù các yếu tố cụ thể dẫn đến sự thay đổi này vẫn chưa được xác định rõ. Mặc dù tiềm năng tiêu dùng xanh tại Việt Nam là rất lớn, các nghiên cứu về những yếu tố quyết định ý định tiêu dùng xanh vẫn còn hạn chế, do đó việc xác định rõ các nhân tố ảnh hưởng đến ý định mua sắm xanh trở thành một yêu cầu cấp thiết (Nguyen và cộng sự, 2024). Vì vậy, nghiên cứu nhằm mục tiêu kiểm tra tác động của kiến thức và mức độ nhạy cảm với môi trường đến thái độ đối với sản phẩm xanh, từ đó ảnh hưởng đến ý định mua xanh. Ngoài ra, nghiên cứu cũng xem xét sự ảnh hưởng của kiến thức về môi trường đến độ nhạy cảm môi trường của người tiêu dùng. Cuối cùng, nghiên cứu đưa ra các hàm ý quản trị nhằm hỗ trợ các nhà quản lý trong việc thúc đẩy ý định mua sản phẩm xanh của người tiêu dùng tại TP. Hồ Chí Minh.

2. Cơ sở lý thuyết

(1) Sản phẩm xanh

Sản phẩm xanh được định nghĩa là những sản phẩm được sản xuất bằng phương pháp tiêu thụ ít tài nguyên thiên nhiên hơn, hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường và giảm thiểu lượng chất thải phát sinh (Policarpo và Aguiar, 2020). Các sản phẩm này đã được chứng minh là ít gây hại cho môi trường tự nhiên cũng như sức khỏe con người, đồng thời ngày càng trở nên phổ biến nhờ tính thân thiện và những ưu thế vượt trội đối với hệ sinh thái, môi trường và sức khỏe so với các sản phẩm truyền thống. Một số ví dụ tiêu biểu có thể kể đến như ô tô xanh hoặc ô tô hybrid, sản phẩm tái chế, thiết bị điện tử tiết kiệm năng lượng, trà hữu cơ và các loại thực phẩm khác (Al-Gasawneh và Al-Adamat, 2020). Gần đây, Sdrolia và cộng sự (2019) đã phân loại sản phẩm xanh thành hai nhóm hữu hình và vô hình, qua đó nhấn mạnh vai trò của công nghệ và khoa học hiện đại trong việc hạn chế các tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến môi trường.

(2) Ý định mua hàng xanh

Lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior – TPB) do Ajzen (1991) đề xuất giải thích cơ chế hình thành ý định hành vi của cá nhân. Khung lý thuyết này đã được chứng minh có giá trị dự báo đáng tin cậy đối với ý định cũng như hành vi của người tiêu dung và thường xuyên được vận dụng trong các nghiên cứu về hành vi tiêu dùng xanh (Hassan và cộng sự, 2018; Shukla, 2019). Manaktola và Jauhari (2007) mô tả rằng ý định thực hiện hành vi của một người tăng lên khi họ có niềm tin, thái độ tích cực đối với hành vi đó.

Các thuật ngữ như “mua sắm xanh” và “mua sắm có trách nhiệm với môi trường” đã xuất hiện trong nhiều công trình học thuật trước đây nhằm khám phá hành vi mua xanh của người tiêu dùng (Zaremohzzabieh và cộng sự, 2021). Ý định mua được hiểu là quyết định mang tính tinh thần của khách hàng về việc lựa chọn sản phẩm hoặc dịch vụ có khả năng đáp ứng nhu cầu hay mong muốn của họ, dựa trên trải nghiệm và quá trình phân tích thông tin cuả khách hàng (Wong và cộng sự, 2020; Tarabieh, 2021). Trong bối cảnh đó, ý định mua xanh được định nghĩa là mong muốn lựa chọn các sản phẩm sở hữu đặc tính thân thiện với môi trường và phù hợp với hệ sinh thái (Rahim và cộng sự, 2016).

(3) Kiến thức về môi trường

Kiến thức về môi trường được hiểu là phản ứng của người tiêu dùng đối với hành vi tiêu dùng và nhu cầu về các sản phẩm thân thiện với môi trường (Haryanto, 2014). Khi người tiêu dùng sở hữu kiến thức đáng kể về môi trường và có trải nghiệm thực tế với sản phẩm xanh, thái độ của họ đối với các sản phẩm này thường trở nên tích cực hơn (Vazifehdoust và cộng sự, 2013).

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ trực tiếp và có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức môi trường và thái độ đối với sản phẩm xanh (Jaiswal và Kant, 2018; Lavuri, 2022). Đồng thời, những cá nhân có kiến thức về môi trường thường được ghi nhận là nhạy cảm hơn với các vấn đề an toàn môi trường (Cheng và Wu, 2015). Chanda và cộng sự (2023) cho rằng những người tiêu dùng nhạy cảm với môi trường và có thái độ tích cực đối với sản phẩm xanh thường có trình độ học vấn cao và kiến thức tốt về môi trường. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng đã xác nhận tác động tích cực của kiến thức môi trường đối với mức độ nhạy cảm với môi trường (Pan và cộng sự, 2018; Rusli và Ahmad, 2018). Do đó, giả thuyết được đề xuất:

H1. Kiến thức về môi trường ảnh hưởng tích cực đến thái độ đối với sản phẩm xanh.

H2. Kiến thức về môi trường ảnh hưởng tích cực đến độ nhạy cảm với môi trường.

(4) Độ nhạy cảm với môi trường

Nhạy cảm với môi trường được định nghĩa là sự gắn kết toàn diện về mặt tinh thần và cảm xúc của cá nhân đối với môi trường tự nhiên (Kunz và cộng sự, 2016). Carlson và cộng sự (2017) cho rằng những cá nhân có mức độ nhạy cảm cao thường thể hiện sự tôn trọng đối với môi trường và mong muốn tìm hiểu về sức khỏe môi trường, từ đó thực hiện các hành động phù hợp nhằm bảo vệ môi trường khỏi sự suy thoái.

Theo Chanda và cộng sự (2023), trong quá trình đưa ra quyết định tiêu dùng, những cá nhân này nhận thức được tác động của hành vi mua sắm đến tình trạng ô nhiễm môi trường và thường hình thành thái độ tích cực đối với các sản phẩm ít gây hại cho môi trường. Hơn nữa, những người có mức độ nhạy cảm cao đối với sức khỏe môi trường có xu hướng ủng hộ các sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu thô và công nghệ thân thiện với môi trường (Chanda và cộng sự, 2023). Bala và cộng sự (2022) cũng khẳng định, các cá nhân nhạy cảm với môi trường thường có thái độ tích cực hơn đối với sản phẩm xanh do sự quan tâm của họ đối với sức khỏe môi trường. Do đó, giả thuyết được đề xuất:

H3. Độ nhạy cảm với môi trường ảnh hưởng tích cực đến thái độ đối với các sản phẩm xanh.

(5) Thái độ đối với sản phẩm xanh

Chanda và cộng sự (2023) cho rằng thái độ của cá nhân có thể thay đổi tùy thuộc vào bối cảnh về thời gian, địa điểm, sự kiện hay tình huống, đồng thời đóng vai trò là yếu tố quan trọng trong việc dự đoán ý định hành vi trong tương lai. Xu và cộng sự (2019) phát hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa thái độ tích cực, thân thiện với môi trường của người tiêu dùng Hoa Kỳ và ý định mua xe thân thiện với môi trường.

Zaremohzzabieh và cộng sự (2021) cho thấy thái độ của người tiêu dùng đối với bao bì xanh có ảnh hưởng đáng kể đến ý định mua hàng xanh. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu được thực hiện trên các nhóm sản phẩm khác nhau trong lĩnh vực tiếp thị xanh đều cho thấy sự nhất quán khi khẳng định rằng những cá nhân có thái độ tích cực đối với sản phẩm xanh thường có xu hướng phát triển ý định mua các sản phẩm thân thiện với môi trường. (Chanda và cộng sự, 2023). Do đó, giả thuyết được đề xuất:

H4. Thái độ đối với sản phẩm xanh ảnh hưởng tích cực đến ý định mua sản phẩm xanh.

3. Phương pháp nghiên cứu

Các nhà tiếp thị thường ưu tiên sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện để thu thập dữ liệu nhằm điều tra ý định mua của khách hàng (Etikan và cộng sự, 2016). Trong lĩnh vực tâm lý học, lấy mẫu thuận tiện cũng là kỹ thuật được áp dụng phổ biến nhất (Scholtz và Korsten, 2016). Vì vậy, phương pháp lấy mẫu thuận tiện được xem là phù hợp cho nghiên cứu này.

Trước khi tiến hành khảo sát chính thức, nhóm nghiên cứu đã thực hiện khảo sát sơ bộ với 50 đáp viên nhằm kiểm tra tính hợp lý của bảng hỏi. Đối tượng khảo sát là người tiêu dùng tại TP. Hồ Chí Minh có kinh nghiệm hoặc từng sử dụng các sản phẩm xanh. Bảng hỏi được phân phối trực tuyến thông qua các nền tảng mạng xã hội trong khoảng thời gian từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 6 năm 2025. Kết quả, nghiên cứu thu được tổng cộng 398 phản hồi, trong đó 382 phản hồi hợp lệ được đưa vào phân tích.

Thang đo trong nghiên cứu này được sử dụng dựa trên các nghiên cứu trước đây. Trong đó bốn biến quan sát được sử dụng từ Jaiswal và Kant (2018), Zaremohzzabieh và cộng sự (2021) để đo lường biến ý định mua sắm xanh; bốn biến quan sát đo lường độ nhạy cảm với môi trường và bốn mục đo lường kiến thức về môi trường dựa trên Jaiswal và Kant (2018). Cuối cùng, thái độ đối với sản phẩm xanh được đo lường bằng ba biến quan sát của Jaiswal và Kant (2018) và Cheah và cộng sự (2020). Tất cả biến quan sát được đo lường bằng thang đo Likert 5 điểm. Phần mềm SPSS và Amos được sử dụng để phân tích, đo lường trong nghiên cứu này.

4. Kết quả và thảo luận

(1) Thống kê nhân khẩu học

Tỷ lệ giới tính trong mẫu nghiên cứu là 53.4% nam (204), 46.6% nữ (178). Nhóm người tham gia khảo sát trong độ tuổi từ 31 đến 40 là nhiều nhất (56.3%), tiếp đến là độ tuổi từ 22 đến 30 (25.9%) và độ tuổi trên 40 (17.8%). Phần lớn người trả lời có thu nhập hàng tháng từ 10 đến 20 triệu đồng (49.7%), thứ hai là nhóm người mà thu nhập của họ trên 20 triệu đồng (30.6%), nhóm người có thu nhập dưới 10 triệu đồng có tỷ lệ thấp nhất (19.6%).

(2) Kiểm định thang đo

Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) của tất cả các mục được thực hiện đồng thời để đánh giá tính hợp lệ của các mục và bốn nhân tố cơ bản. Theo mức chấp nhận được khuyến nghị bởi Hair và cộng sự (2010), kết quả cho thấy mô hình đo lường và dữ liệu phù hợp với X2/df = 1.162<3 (p = 0,000). Hơn nữa, chỉ số độ phù hợp tốt (GFI) = 0.967, chỉ số phù hợp chuẩn (NFI) = 0.957 và chỉ số phù hợp so sánh (CFI) = 0.994 được phát hiện là lớn hơn giá trị chấp nhận tối thiểu là 0.9. Sai số bình phương trung bình xấp xỉ (RMSEA) = 0.039 thấp hơn giới hạn đề xuất là 0.05.

Giá trị hội tụ đo lường xem các mục có phản ánh hiệu quả cấu trúc tương ứng hay không, trong khi giá trị phân biệt đo lường xem hai yếu tố có khác biệt về mặt thống kê hay không. Bảng 1 trình bày trọng số nhân tố, Cronbach α, độ tin cậy của cấu trúc (CR) và phương sai trích trung bình (AVE) của các khái niệm. Toàn bộ giá trị α đều vượt ngưỡng 0.7, cho thấy thang đo đạt độ tin cậy tốt. Hầu hết các hệ số tải trọng các mục đều lớn hơn 0.7. Mỗi AVE vượt quá 0.5 và CR vượt quá 0.7. Do đó, thang đo có giá trị hội tụ tốt (Hair và cộng sự, 2010).

Kiểm định nhân tố đơn Harman (Podsakoff và cộng sự, 2003) được lựa chọn với mục đích phát hiện độ lệch phương pháp chung. Kết quả cho thấy, nhân tố thứ nhất chỉ giải thích được 31.51% tổng phương sai, nhỏ hơn 50%, cho thấy sai lệch phương pháp chung không phải vấn đề với nghiên cứu này.

Bảng 1: Kết quả phân tích CFA

         Nhân tốThang đoHệ số tải
nhân tố
αCRAVE
Kiến thức về môi trường (KT)

KT10.7190.8290.8300.549
KT20.736
KT30.745
KT40.765
Độ nhạy cảm với môi trường (NC)

NC10.6830.8200.8210.534
NC20.745
NC30.726
NC40.767
Thái độ
với sản phẩm xanh (TD)

TD10.7960.8330.8330.624
TD20.795
TD30.778
Ý định mua
sản phẩm xanh (YD)
YD10.7080.8180.8180.530
YD20.720
YD30.729
YD40.754
Ghi chú: X2/df = 1.162; p < 0.01; GFI = 0.967, NFI = 0.957, CFI = 0.994; TLI = 992; RMSEA = 0.021. Nguồn: dữ liệu nghiên cứu

Giá trị phân biệt so sánh căn bậc hai của AVE và hệ số tương quan nhân tố (Bảng 2). Đối với mỗi nhân tố, căn bậc hai của phương sai trích trung bình (in đậm) lớn hơn đáng kể so với hệ số tương quan của nó với các nhân tố khác, cho thấy mức độ giá trị phân biệt đạt yêu cầu (Fornell và Larcker, 1981).

Bảng 2: Giá trị phân biệt

 KTNCTDYD
Kiến thức về môi trường0.741   
Độ nhạy cảm với môi trường0.195**0.731  
Thái độ với sản phẩm xanh0.263***0.442***0.790 
Ý định mua sản phẩm xanh0.334***0.394***0.486***0.728
Ghi chú: *** p < 0.001; ** p < 0.01. Nguồn: dữ liệu nghiên cứu.

(3) Đánh giá mô hình SEM

Kết quả phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính đầy đủ cho thấy mức độ phù hợp cao giữa dữ liệu thu thập và mô hình lý thuyết đề xuất, với các chỉ số đạt yêu cầu: Chi-square/df = 1.406, GFI = 0.960, TLI = 0.980, CFI = 0.984 và RMSEA = 0.033. Các giả thuyết nghiên cứu được kiểm định thông qua việc đánh giá ý nghĩa thống kê của các hệ số đường dẫn. Sơ đồ đường dẫn cùng với các ước lượng tham số chuẩn hóa được trình bày trong Hình 2. Bảng 4 cho thấy toàn bộ các giả thuyết (H1–H4) đều được chấp nhận với mức ý nghĩa p < 0,01. Thái độ với sản phẩm xanh chịu tác động tích cực từ Kiến thức về môi trường (β = 0.203) và Độ nhạy cảm với môi trường (β = 0.421), tiếp đến tác động tích cực đến Ý định mua xanh (β = 0.510). Cuối cùng, Kiến thức về môi trường tác động tích cực đến Độ nhạy cảm với môi trường (β = 0.195).

Bảng 4: Kiểm định giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyếtHệ số chuẩn hóaSai số chuẩnGiá trị
kiểm định t
P
(<0.01)
H10.2030.2383.447***
H20.1950.3413.109***
H30.4210.2826.676***
H40.5100.5207.861***
Nguồn: dữ liệu nghiên cứu

(4) Thảo luận kết quả nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm mục tiêu khám phá ý định hành vi của người tiêu dùng đối với sản phẩm xanh. Kết quả cho thấy kiến thức về môi trường có ảnh hưởng tích cực đến mức độ nhạy cảm với môi trường, qua đó khẳng định vai trò quan trọng của kiến thức trong việc khơi gợi sự quan tâm và đồng cảm của người tiêu dùng đối với các vấn đề môi trường, phù hợp với nghiên cứu của Cheng và Wu, (2015) và Chanda và cộng sự, (2023). Đồng thời, mức độ nhạy cảm với môi trường cũng được chứng minh có ảnh hưởng tích cực đến thái độ đối với sản phẩm xanh, phù hợp với phát hiện của Cheng và Wu (2015) và Chanda và cộng sự (2023). Điều này hàm ý rằng những cá nhân có mức độ nhạy cảm môi trường cao thường hình thành thái độ tích cực mạnh mẽ hơn đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường.

Nghiên cứu đồng thời phát hiện giữa kiến thức về môi trường và thái độ đối với sản phẩm xanh có mối quan hệ tích cực, tương đồng với kết quả của Zaremohzzabieh và cộng sự (2021), nhưng khác biệt với phát hiện của Chanda và cộng sự (2023). Cuối cùng, thái độ đối với sản phẩm xanh được chứng minh có tác động tích cực đến ý định mua sản phẩm xanh, củng cố lập luận rằng khách hàng trở nên mạnh mẽ hơn với ý định tiêu dùng xanh khi họ có thái độ tích cực đối với các sản phẩm xanh, phù hợp với kết quả của Chanda và cộng sự (2023).

5. Kết luận và hàm ý chính sách

Về mặt lý thuyết, nghiên cứu này nhấn mạnh những tiền đề then chốt đã được xác định để hiểu rõ hành vi ý định mua sản phẩm xanh tại TP. Hồ Chí Minh. Đồng thời, cung cấp thêm bằng chứng về hiệu quả của việc áp dụng mô hình TPB mở rộng trong nghiên cứu hành vi tiêu dùng liên quan đến hành vi mua sản phẩm xanh. Những phát hiện của nghiên cứu mang lại hiểu biết sâu sắc hơn về các yếu tố hình thành ý định mua xanh của người tiêu dùng. Cụ thể, kiến thức về môi trường có tác động tích cực đến mức độ nhạy cảm với môi trường, đồng thời cùng nhau ảnh hưởng thuận chiều đến thái độ của khách hàng đối với sản phẩm xanh. Thái độ này đóng vai trò nền tảng trong việc hình thành ý định mua xanh.

Các nhà quản lý có thể hiểu rõ hơn về thị trường mục tiêu, đồng thời xác định các chiến lược truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về những hệ quả tiêu cực của ô nhiễm môi trường đối với đời sống con người, qua đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lựa chọn tiêu dùng xanh.

Ở cấp độ tổ chức, doanh nghiệp có thể nhấn mạnh vai trò và cam kết của mình trong việc bảo vệ môi trường thông qua việc áp dụng các quy trình sản xuất và phân phối thân thiện với môi trường, từ đó khẳng định nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm và đóng góp tích cực vào việc gìn giữ thiên nhiên. Những hành động này không chỉ góp phần nâng cao hiểu biết về môi trường của khách hàng mà còn củng cố mối quan hệ gắn kết giữa họ với doanh nghiệp và các sản phẩm của doanh nghiệp. Từ đó củng cố thái độ tích cực và ý định hành vi đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường, đưa đến việc gia tăng trong mong muốn mua sản phẩm xanh.

Tài liệu tham khảo:
1. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50, 179-211.
2. Al-Gasawneh, J. A., & Al-Adamat, A. (2020). The mediating role of e-word of mouth on the relationship between content marketing and green purchase intention. Management Science Letters, 10(8), 1701-1708.
3. Asif, M., Xuhui, W., Nasiri, A., & Ayyub, S. (2018). Determinant factors influencing organic food purchase intention and the moderating role of awareness: A comparative analysis. Food Quality and preference, 63, 144-150.
4. Bala, R., Singh, S., & Sharma, K. K. (2023). Relationship between environmental knowledge, environmental sensitivity, environmental attitude and environmental behavioural intention–a segmented mediation approach. Management of Environmental Quality: An International Journal, 34(1), 119-136.
5. Carlson, D. F., Suaria, G., Aliani, S., Fredj, E., Fortibuoni, T., Griffa, A., … & Melli, V. (2017). Combining litter observations with a regional ocean model to identify sources and sinks of floating debris in a semi-enclosed basin: the Adriatic Sea. Frontiers in Marine Science, 4, 78.
6. Chanda, R. C., Isa, S. M., & Ahmed, T. (2023). Factors influencing customers’ green purchasing intention: evidence from developing country. Journal of Science and Technology Policy Management, 15(5), 1056-1084.
7. Cheng, T. M., & Wu, H. C. (2015). How do environmental knowledge, environmental sensitivity, and place attachment affect environmentally responsible behavior? An integrated approach for sustainable island tourism. Journal of Sustainable tourism, 23(4), 557-576.
8. Etikan, I., Musa, S. A., & Alkassim, R. S. (2016). Comparison of convenience sampling and purposive sampling. American journal of theoretical and applied statistics, 5(1), 1-4.
9. Fornell, C., & Larcker, D. F. (1981). Structural Equation Models with Unobservable Variables and Measurement Error: Algebra and Statistics. Journal of Marketing Research, 18, 382-388.
10. Haryanto, B. (2014). The influence of ecological knowledge and product attributes in forming attitude and intention to buy green product. International Journal of Marketing Studies, 6(2), 83.
11. Hassan, H. A., Abbas, S. K., Zainab, F., Waqar, N., & Hashmi, Z. M. (2018). Motivations for green consumption in an emerging market. Asian Journal of Multidisciplinary Studies, 6(5).
12. Hojnik, J., Ruzzier, M., & Konečnik Ruzzier, M. (2019). Transition towards sustainability: Adoption of eco-products among consumers. Sustainability, 11(16), 4308.
13. Jaiswal, D., & Kant, R. (2018). Green purchasing behaviour: A conceptual framework and empirical investigation of Indian consumers. Journal of retailing and consumer services, 41, 60-69.
14. Kunz, A., Walther, B. A., Löwemark, L., & Lee, Y. C. (2016). Distribution and quantity of microplastic on sandy beaches along the northern coast of Taiwan. Marine Pollution Bulletin, 111(1-2), 126-135.
15. Lavuri, R. (2022). Extending the theory of planned behavior: factors fostering millennials’ intention to purchase eco-sustainable products in an emerging market. Journal of Environmental Planning and Management, 65(8), 1507-1529.
16. Manaktola, K., & Jauhari, V. (2007). Exploring consumer attitude and behaviour towards green practices in the lodging industry in India. International journal of contemporary hospitality management, 19(5), 364-377.
17. Nguyen, X. H., Nguyen, T. T., Anh Dang, T. H., Dat Ngo, T., Nguyen, T. M., & Anh Vu, T. K. (2024). The influence of electronic word of mouth and perceived value on green purchase intention in Vietnam. Cogent Business & Management, 11(1), 2292797.
18. Pan, S. L., Chou, J., Morrison, A. M., Huang, W. S., & Lin, M. C. (2018). Will the future be greener? The environmental behavioral intentions of university tourism students. Sustainability, 10(3), 634.
19. Pocol, C. B., Marinescu, V., Amuza, A., Cadar, R. L., & Rodideal, A. A. (2020). Sustainable vs. unsustainable food consumption behaviour: a study among students from Romania, Bulgaria and Moldova. Sustainability, 12(11), 4699.
20. Podsakoff, P. M., MacKenzie, S. B., Lee, J. Y., & Podsakoff, N. P. (2003). Common method biases in behavioral research: a critical review of the literature and recommended remedies. Journal of applied psychology, 88(5), 879.
21. Policarpo, M. C., & Aguiar, E. C. (2020). How self-expressive benefits relate to buying a hybrid car as a green product. Journal of Cleaner Production, 252, 119859.
22. Rahim, R. A., Sulaiman, Z., Chin, T. A., Baharun, R., & Muharam, F. M. (2016). Measuring electronic word of mouth review adoption on green purchase intention using source credibility theory. Advanced Science Letters, 22(12), 4283-4287.
23. Rusli, N. R. L., & Ahmad, F. A. (2018). Influence of environmental consciousness and knowledge on green practices: an islamic perspective. Review of Integrative Business and Economics Research, 7, 304-313.
24. Scholtz, I., & Korsten, L. (2016). Profile of Penicillium species in the pear supply chain. Plant Pathology, 65(7), 1126-1132.
25. Sdrolia, E., & Zarotiadis, G. (2019). A comprehensive review for green product term: From definition to evaluation. Journal of Economic Surveys, 33(1), 150-178.
26. Shukla, S. (2019). A study on millennial purchase intention of green products in India: applying extended theory of planned behavior model. Journal of Asia-Pacific Business, 20(4), 322-350.
27. Tarabieh, S. M. Z. A. (2021). The impact of greenwash practices over green purchase intention: The mediating effects of green confusion, Green perceived risk, and green trust. Management Science Letters, 11(2), 451-464.
28. Thu, N. T. P., Xuan, V. N., & Huong, L. M. (2022). Analysis of the factors affecting environmental pollution for sustainable development in the future-the case of Vietnam. Sustainability, 14(23), 15592.
29. Vazifehdoust, H., Taleghani, M., Esmaeilpour, F., Nazari, K., & Khadang, M. (2013). Purchasing green to become greener: Factors influence consumers’ green purchasing behavior. Management Science Letters, 3(9), 2489-2500.
30. Wang, B., Li, J., Sun, A., Wang, Y., & Wu, D. (2019). Residents’ green purchasing intentions in a developing-country context: Integrating PLS-SEM and MGA methods. Sustainability, 12(1), 30.
31. Wong, J. Y., Wong, H. S., & Wong, W. P. M. (2020). Green products purchase intention: A study of Sibu Sarawak. e-BANGI, 17(1), 62-79.
32. Xu, L., Prybutok, V., & Blankson, C. (2019). An environmental awareness purchasing intention model. Industrial Management & Data Systems, 119(2), 367-381.
33. Zaremohzzabieh, Z., Ismail, N., Ahrari, S., & Samah, A. A. (2021). The effects of consumer attitude on green purchase intention: A meta-analytic path analysis. Journal of Business Research, 132, 732-743.
* Tác giả liên hệ: vuxuanha@sgu.edu.vn.