Vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam hiện nay

ThS. Nguyễn Thị Thùy Linh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc phát triển kinh tế tuần hoàn là mô hình phát triển kinh tế dựa trên nguyên tắc tái sử dụng, tái chế và kéo dài vòng đời của sản phẩm nhằm giảm thiểu chất thải, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đây được xem là xu hướng tất yếu để hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Trong quá trình này, Nhà nước giữ vai trò quan trọng đối với định hướng, ban hành chính sách, xây dựng khung pháp lý; đồng thời, hỗ trợ tài chính, công nghệ và giám sát thực thi.

Từ khóa: Vai trò của nhà nước, kinh tế tuần hoàn, nền kinh tế thị trường, tái sử dụng, tái chế, kéo dài vòng đời của sản phẩm.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh toàn cầu hóa thế giới đang phải đối mặt với khủng hoảng môi trường, biến đổi khí hậu và nguồn tài nguyên thiên nhiên đang bị khai thác quá mức đến cạn kiệt, kinh tế tuần hoàn được xem là một trong những mô hình phát triển tất yếu của thời đại, nó thay thế cho mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống. Đối với  Việt Nam, muốn phát triển bền vững, hội nhập quốc tế và yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng thì việc thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trở thành một chủ trương tất yếu. Để quá trình này được diễn ra nhanh thì vai trò của Nhà nước có ý nghĩa then chốt đặc biệt quan trọng, bởi Nhà nước vừa là “kiến trúc sư” xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật vừa là “nhạc trưởng” điều phối các nguồn lực, đồng thời, cũng là “trọng tài” trong việc kiểm tra, giám sát và bảo đảm sự tuân thủ pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân.

2. Kinh tế tuần hoàn và vai trò của Nhà nước đối với phát triển loại hinh kinh tế tuần hoàn

2.1. Một số vấn đề lý luận về kinh tế tuần hoàn

Kinh tế tuần hoàn là một mô hình phát triển kinh tế dựa trên nguyên tắc quay vòng và tái tạo tài nguyên, nhằm thay thế cho mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống. Kinh tế tuần hoàn xuất phát từ nhận thức khoa học rằng tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn, trong khi nhu cầu phát triển của con người ngày càng tăng, dẫn đến nguy cơ khủng hoảng môi trường và cạn kiệt tài nguyên. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) “Kinh tế tuần hoàn là một hệ thống công nghiệp được phục hồi hoặc tái tạo theo ý định và thiết kế. Nó chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, loại bỏ việc sử dụng các hóa chất độc hại làm mất khả năng tái sử dụng và quay trở lại sinh quyển thông qua thiết kế ưu việt của vật liệu, sản phẩm, hệ thống và mô hình kinh doanh”1. Kinh tế tuần hoàn đặt trọng tâm vào việc thiết kế lại các hệ thống sản xuất và tiêu dùng sao cho chất thải của quá trình này trở thành nguyên liệu cho quá trình khác, hình thành một chu trình khép kín, giảm thiểu tối đa tác động xấu đến môi trường và tối ưu hóa giá trị kinh tế – xã hội.

Xét về bản chất kinh tế tuần hoàn được xây dựng trên 3 nguyên tắc cơ bản: (1) Giảm thiểu tối đa việc sử dụng tài nguyên không thể tái tạo và hạn chế chất thải; (2) Tái sử dụng những sản phẩm, vật liệu luân chuyển theo nhiều vòng đời khác nhau; (3) Tái chế chất thải thành nguyên liệu mới cho sản xuất. Ba nguyên tắc này tạo thành nền tảng của “3R”, đồng thời được mở rộng thành các mô hình 5R, 7R tùy theo mức độ phát triển của từng quốc gia. Kinh tế tuần hoàn không chỉ là giải pháp kỹ thuật về môi trường mà còn là một lý luận phát triển mới, gắn với khái niệm “tăng trưởng xanh” và “phát triển bền vững”, trong đó coi trọng cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và công bằng xã hội.

Tiếp cận dưới góc độ triết học: phát triển, kinh tế tuần hoàn phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa con người với giới tự nhiên. Nếu mô hình kinh tế tuyến tính coi tự nhiên là đối tượng chịu sự tác động của con người, bị con người khai thác một chiều thì kinh tế tuần hoàn lại xem tự nhiên là một hệ thống hữu cơ, nơi con người cần thiết lập mối quan hệ hài hòa, tôn trọng quy luật quy luật tự nhiên, tái sinh lại tự nhiên theo mục đích của mình. Theo đó, phát triển kinh tế không đồng nghĩa với tăng trưởng vô hạn, bằng mọi giá mà phải gắn với việc duy trì “dấu chân sinh thái” ở mức độ hợp lý, bảo đảm cho các thế hệ tương lai vẫn có cơ hội thụ hưởng tài nguyên và môi trường trong lành.

Tiếp cận dưới phương diện kinh tế học: kinh tế tuần hoàn khẳng định giá trị của tài nguyên không chỉ dừng lại ở một vòng đời sản phẩm. Thay vì nguyên liệu tạo ra sản phẩm, sản phẩm đem vào sử dụng xong, rối vứt bỏ, không tái tọa thì kinh tế tuần hoàn hướng tới việc kéo dài vòng đời của nguyên liệu, tối ưu hóa công năng, sau khi chế tạo sản phẩm tiêu dùng, khi sản phẩm không sử dụng nữa thì có thể tái chế hoặc tái sản xuất để tiếp tục khai thác giá trị của nó. Như vậy, kinh tế tuần hoàn giúp tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm phụ thuộc vào tài nguyên sơ cấp, đồng thời mở ra cơ hội kinh doanh mới trong các ngành tái chế, năng lượng tái tạo, dịch vụ môi trường. Có thể thấy, kinh tế tuần hoàn không đơn thuần là một mô hình kinh tế, mà là một hệ thống tổng hợp liên quan đến triết học, kinh tế học, sinh thái học… Nó mang ý nghĩa cách mạng trong tư duy phát triển: thay vì “tăng trưởng bằng mọi giá”, kinh tế tuần hoàn hướng tới “tăng trưởng hài hòa, cân bằng và bền vững”. Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc tiếp thu kinh tế tuần hoàn không chỉ nhằm giải quyết áp lực môi trường mà còn mở ra con đường phát triển mới, giúp hội nhập với xu thế toàn cầu, bảo đảm an ninh tài nguyên, và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

2.2. Vai trò của Nhà nước về phát triển kinh tế tuần hoàn

Thứ nhất, Nhà nước giữ vai trò định hướng, hoạch định chiến lược và thể chế hóa. Kinh tế tuần hoàn là mô hình phát triển phức tạp, liên quan đến toàn bộ chuỗi sản xuất, tiêu dùng, nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, Nhà nước phải đóng vai trò xác định mục tiêu, lộ trình, cơ chế khuyến khích, chính sách ưu tiên, đồng thời cụ thể hóa thành hệ thống luật pháp và văn bản dưới luật, tạo hành lang pháp lý rõ ràng yêu cầu các bộ, ngành xây dựng quy định, hướng dẫn triển khai.

Thứ hai, Nhà nước đóng vai trò phân bổ và điều phối nguồn lực. Kinh tế tuần hoàn cần nguồn vốn lớn, công nghệ hiện đại và nhân lực có trình độ. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam, doanh nghiệp và người dân chưa đủ tiềm lực để tự đầu tư đồng bộ, vì vậy, Nhà nước cần huy động và phân bổ các nguồn lực thông qua ngân sách, quỹ hỗ trợ, cơ chế tín dụng xanh, đồng thời, thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ tài chính và công nghệ. Bên cạnh đó, Nhà nước còn giữ vai trò điều tiết quan hệ giữa các bên liên quan, như: doanh nghiệp, người dân, tổ chức xã hội, để bảo đảm sự cân bằng lợi ích trong việc thực hiện kinh tế tuần hoàn.

Thứ ba, Nhà nước là người kiến tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho phát triển kinh tế tuần hoàn. Một nền kinh tế tuần hoàn chỉ có thể vận hành hiệu quả khi các doanh nghiệp được khuyến khích đổi mới sáng tạo, đầu tư công nghệ sạch, giảm thiểu rác thải. Nhà nước với công cụ thuế, phí, chính sách ưu đãi hoặc chế tài xử phạt đóng vai trò thúc đẩy sự thay đổi hành vi của doanh nghiệp và người tiêu dùng, hướng tới tiêu dùng bền vững.

Thứ tư, Nhà nước thực hiện vai trò thanh tra, giám sát các chủ thể tham gia trực tiếp phát triển kinh tế tuần hoàn. Nền kinh tế tuần hoàn gắn chặt với bảo vệ môi trường, do đó cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ từ phía Nhà nước để tránh tình trạng doanh nghiệp lợi dụng “xanh hóa” như một chiêu bài quảng bá nhưng thực chất vẫn gây ô nhiễm. Thông qua hệ thống thanh tra môi trường, cơ quan quản lý cần kiểm soát chặt việc thu gom, tái chế, xử lý chất thải; đồng thời, công khai minh bạch thông tin để người dân tham gia giám sát.

Thứ năm, Nhà nước đóng vai trò là trung tâm tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng về phát triển kinh tế tuần hoàn. Nền kinh tế tuần hoàn không chỉ là vấn đề kinh tế, kỹ thuật mà còn gắn với thay đổi hành vi xã hội, văn hóa tiêu dùng. Chính phủ, các bộ, ngành, chính quyền địa phương có vai trò lan tỏa thông tin, khuyến khích cộng đồng tham gia phân loại rác thải tại nguồn, giảm tiêu dùng nhựa dùng một lần, ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường. Vai trò dẫn dắt về nhận thức của Nhà nước có tính quyết định để hình thành thói quen mới trong xã hội.

3. Thực trạng vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam hiện nay

3.1. Một số những thành tựu đạt được.

Một là, về mặt chính sách. Nhà nước đã có bước tiến quan trọng khi đưa kinh tế tuần hoàn vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các nghị định, thông tư hướng dẫn. Một số chương trình, đề án như: Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn 2050; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh; hay Kế hoạch hành động thực hiện kinh tế tuần hoàn giai đoạn 2022 – 2030 đã được ban hành. Quan điểm của Đảng, Nhà nước định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó khẳng định “phải ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, phát triển nhà máy điện sử dụng rác thải, chất thải để bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế tuần hoàn. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 chính thức luật hóa quy định về kinh tế tuần hoàn”2. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đưa ra định hướng “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”3, “Xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn”4. Đây là cơ sở để các ngành, địa phương triển khai các mô hình về kinh tế tuần hoàn. Ngoài ra, Việt Nam cũng tích cực tham gia các cam kết quốc tế, điển hình là tại COP26, Chính phủ cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050, điều này đòi hỏi phải thúc đẩy kinh tế tuần hoàn phát triển mạnh mẽ.

Hai là, về thực tiễn triển khai. Nhà nước đã xuất hiện một số mô hình kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Trong lĩnh vực nông nghiệp, có thể kể đến mô hình “tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp” ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi rơm rạ sau thu hoạch được sử dụng để sản xuất nấm, làm nguyên liệu chăn nuôi, sản xuất phân hữu cơ. Trong các ngành công nghiệp cũng đang đẩy mạnh mô hình kinh tế tuần hoàn. Một số doanh nghiệp dang từng bước chuyển đổi sang mô hình phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trưởng, như: “Công ty Nestlé sản xuất gạch không nung từ rác thải lò hơi, chế biến phân bón từ bùn thải không nguy hại và sử dụng vỏ hộp sữa làm tấm lợp sinh thái. Nestlé cũng có kế hoạch tái chế và tái sử dụng 100% bao bì sản phẩm tới năm 2025”5. Công ty “Heineken Việt Nam có gần 99% phế thải hoặc phụ phẩm được tái sử dụng hoặc tái chế, 4/6 nhà máy bia sử dụng nhiệt năng từ năng lượng tái tạo và nhiên liệu không phát thải các bon. Unilever Việt Nam triển khai chương trình thu gom tái chế bao bì nhựa và phân loại rác tại nguồn”6. Lĩnh vực năng lượng cũng xuất hiện các dự án điện rác, điện gió, điện mặt trời góp phần tận dụng tài nguyên tái tạo và giảm khí thải ra môi trường.

3.2. Một số hạn chế, bất cập.

Thứ nhất, khung pháp lý chưa hoàn thiện. Mặc dù Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã lần đầu tiên đưa khái niệm và định hướng phát triển kinh tế tuần hoàn vào quy định pháp lý tại Điều 142 “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và được xem là một trong những chính sách ưu đãi, hỗ trợ và phát triển kinh tế môi trường, sẽ góp phần đẩy nhanh việc phát triển kinh tế tại Việt Nam”7. Song các văn bản hướng dẫn chi tiết còn thiếu, chưa hình thành một hệ thống quy định toàn diện. Nhiều chính sách liên quan đến trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, phân loại rác thải tại nguồn, tái chế, tái sử dụng tài nguyên mới chỉ ở mức thử nghiệm, chưa có cơ chế giám sát, chế tài cụ thể và đủ mạnh dẫn đến tình trạng lách luật, vi phạm pháp luật xả phế liệu ra môi trường, đặc biệt là những phế liệu độc hại còn diễn ra ở nhiều nơi. “Từ đầu năm 2025 đến nay, UBND tỉnh Đồng Nai đã xử phạt hàng loạt doanh nghiệp vi phạm bảo vệ môi trường với tổng số tiền hơn 7 tỷ đồng, trong đó có trường hợp bị phạt với số tiền lớn gần 1,6 tỷ đồng”8. Bên cạnh đó, chưa có những ưu đãi tài chính, thuế hoặc tín dụng đủ hấp dẫn để khuyến khích doanh nghiệp tham gia các mô hình kinh tế tuần hoàn; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về tái chế, tái sử dụng còn thiếu, gây khó khăn cho áp dụng. Sự phối hợp giữa các bộ giữa các cấp, ngành, ngành, địa phương trong ban hành và thực thi chính sách còn phân tán, dẫn đến tình trạng chồng chéo, thiếu hiệu lực. Điều này khiến kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam vẫn chưa có khung pháp lý rõ ràng, ổn định để tạo hành lang phát triển mạnh mẽ.

Thứ hai, việc phát triển kinh tế tuần hoàn còn thiếu nguồn lực. Kinh tế tuần hoàn đòi hỏi sự đầu tư đáng kể vào công nghệ sạch, hạ tầng tái chế, hệ thống thu gom, phân loại chất thải, cũng như các mô hình sản xuất, tiêu dùng mới và nguồn lực con người. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính hạn chế, khó tiếp cận nguồn vốn ưu đãi để đổi mới công nghệ hoặc đầu tư dài hạn cho các dự án tuần hoàn. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về công nghệ tái chế, quản lý tuần hoàn và đổi mới sáng tạo còn khan hiếm, chưa đáp ứng nhu cầu triển khai rộng rãi. Hệ thống hạ tầng cơ sở phục vụ kinh tế tuần hoàn, từ nhà máy tái chế hiện đại đến các điểm thu gom rác thải phân loại, cũng thiếu và yếu, chưa đồng bộ giữa các địa phương.

Nguồn lực đầu tư cho khoa học, công nghệ xử lý chất thải, đặc biệt là chất thải công nghiệp còn hạn chế. Công nghệ xử lý chất thải công nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, khiến chi phí đầu tư cao và khó duy trì bền vững. Chính sự thiếu hụt về tài chính, nhân lực và hạ tầng cơ sở đã làm chậm tiến trình hiện thực hóa kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, dù nhu cầu và quyết tâm chính trị đã được khẳng định rõ ràng nhưng nhận thức xã hội chưa cao: Một bộ phận không nhỏ người dân chưa có ý thức bảo vệ môi trưởng; chưa có thói quen phân loại rác thải. Nhiều doanh nghiệp chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà không coi trọng đến vấn đề môi trường; coi kinh tế tuần hoàn chỉ là xu hướng marketing chứ chưa thực sự thay đổi mô hình sản xuất.

Thứ ba, công tác giám sát môi trường còn yếu. Việc thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm môi trường vẫn còn tình trạng nể nang, thiếu kiên quyết, thậm chỉ tham nhũng trong công tác thanh tra, tình trạng này dẫn đến hiệu lực trong thanh tra chưa cao.

Thứ tư, việc liên kết chuỗi chưa chặt chẽ. Nền kinh tế tuần hoàn cần sự kết nối giữa các cấp, các ngành, các khâu, nhưng ở Việt Nam còn thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả, dẫn đến tình trạng cục bộ, manh mún. Khung pháp lý và cơ chế chính sách cho giám sát còn thiếu đồng bộ, chưa có hệ thống tiêu chí, chỉ số đánh giá cụ thể để đo lường hiệu quả của kinh tế tuần hoàn. Một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp triển khai mô hình tái chế, tái sử dụng nhưng thiếu cơ chế kiểm tra, dẫn đến tình trạng làm hình thức, “xanh hóa” giả tạo. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương còn chồng chéo, thiếu sự thống nhất, làm giảm hiệu quả giám sát. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ giám sát chưa được đào tạo chuyên sâu về kinh tế tuần hoàn, thiếu nguồn lực và công cụ khoa học, công nghệ để theo dõi. Sự tham gia của cộng đồng, các tổ chức xã hội trong hoạt động giám sát còn mờ nhạt.

Như vậy, vai trò của Nhà nước tuy đã được thể hiện ở nhiều mặt, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để tạo ra bước chuyển mang tính đột phá. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục đổi mới phương thức quản lý, xây dựng chính sách toàn diện; đồng thời, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp và xã hội tham gia.

4. Giải pháp phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

Một là, hoàn thiện thể chế, pháp lý về phát triển kinh tế tuần hoàn. Nhà nước cần sớm ban hành nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết việc triển khai kinh tế tuần hoàn theo từng lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, xây dựng. Đồng thời, cần tích hợp kinh tế tuần hoàn vào các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch ngành, địa phương một cách có hệ thống. Có thể xây dựng Luật Kinh tế tuần hoàn riêng biệt, vạch ra hướng đi lâu dài, nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất.

Hai là, tăng cường hỗ trợ tài chính và cơ chế khuyến khích các tổ chức cá nhân phát triển kinh tế tuần hoàn. Nhà nước cần phát triển các công cụ kinh tế như thuế môi trường, tín dụng xanh, trái phiếu xanh, quỹ bảo vệ môi trường, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình tuần hoàn. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách tín dụng ưu đãi, quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, cũng như miễn giảm thuế cho các hoạt động gắn với kinh tế tuần hoàn. Song song, cần khuyến khích các ngân hàng thương mại, quỹ đầu tư xanh tham gia cung cấp vốn cho các dự án thân thiện môi trường. Ngoài ra, việc ban hành cơ chế khuyến khích như chứng nhận, ưu tiên trong đấu thầu công, hay quảng bá thương hiệu xanh cũng giúp nâng cao động lực cho doanh nghiệp và cá nhân tham gia. Khi có sự đồng hành của Nhà nước về tài chính cùng các chính sách khuyến khích minh bạch, công bằng, kinh tế tuần hoàn sẽ trở thành xu hướng tất yếu, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững.

Ba là, thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ, ứng dụng công nghệ mới vào phát triển kinh tế tuần hoàn. Nhà nước cần đầu tư cho các viện nghiên cứu, trường đại học, khuyến khích hợp tác công – tư trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ liên quan đến tái chế, xử lý chất thải, năng lượng tái tạo. Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp hợp tác với viện nghiên cứu, trường đại học để chuyển giao công nghệ, gắn kết nghiên cứu với thực tiễn sản xuất. Việc ưu tiên ứng dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), trong giám sát chuỗi cung ứng và quản lý tài nguyên sẽ giúp nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đổi mới công nghệ, miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất xanh. Khi khoa học, công nghệ trở thành động lực chính, kinh tế tuần hoàn sẽ không chỉ góp phần giảm áp lực tài nguyên và môi trường mà còn tạo ra giá trị gia tăng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trên con đường phát triển bền vững.

Bốn là, nâng cao năng lực quản lý và giám sát. Cơ quan quản lý môi trường ở các cấp cần được tăng cường nguồn lực, đào tạo nhân lực chuyên sâu về kinh tế tuần hoàn. Cần áp dụng công nghệ số trong giám sát rác thải, khí thải, tạo cơ sở dữ liệu quốc gia về chất thải, giúp minh bạch hóa thông tin và nâng cao hiệu quả quản lý. Đồng thời, phải xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm, tránh tình trạng “nhờn luật”.

Năm là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức. Nhà nước cần phối hợp với các tổ chức xã hội, đoàn thể, truyền thông để xây dựng các chiến dịch nâng cao ý thức phân loại rác, giảm nhựa dùng một lần, tiêu dùng xanh. Việc lồng ghép giáo dục kinh tế tuần hoàn vào chương trình học phổ thông và đại học là giải pháp căn cơ để hình thành thói quen lâu dài cho thế hệ trẻ.

Sáu là, phát triển cơ chế phối hợp và hợp tác quốc tế. Nhà nước cần thiết lập cơ chế liên ngành để điều phối triển khai kinh tế tuần hoàn, tránh tình trạng phân tán, chồng chéo. Đồng thời, tích cực tranh thủ sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, học tập kinh nghiệm từ các quốc gia đã thành công trong kinh tế tuần hoàn, như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Bảy là, phát triển mô hình thí điểm và nhân rộng điển hình. Nhà nước nên lựa chọn một số địa phương, ngành hàng, doanh nghiệp để triển khai thí điểm mô hình kinh tế tuần hoàn, từ đó, rút kinh nghiệm và nhân rộng trên phạm vi toàn quốc. Ví dụ, phát triển mô hình khu công nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn, đô thị tái chế rác, sau đó nhân rộng thành chính sách quốc gia.

5. Kết luận

Phát triển kinh tế tuần hoàn là xu hướng tất yếu, góp phần giải quyết đồng thời 3 mục tiêu: tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và an sinh xã hội. Đối với Việt Nam, vai trò của Nhà nước đặc biệt quan trọng trong việc kiến tạo khung thể chế, pháp lý nhằm huy động nguồn lực, định hướng và giám sát toàn bộ quá trình. Thực trạng hiện nay cho thấy, dù đã có những bước đi ban đầu đáng ghi nhận, song kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam vẫn mới ở giai đoạn khởi đầu, còn thiếu nhiều điều kiện để phát triển mạnh mẽ. Do đó, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới phương thức quản lý, hoàn thiện thể chế, pháp luật, tạo cơ chế khuyến khích, nâng cao nhận thức xã hội và tăng cường hợp tác quốc tế. Chỉ khi vai trò của Nhà nước được phát huy đầy đủ, đồng bộ, kinh tế tuần hoàn mới thực sự trở thành động lực quan trọng giúp Việt Nam tiến tới mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng vào xu thế toàn cầu.

Chú thích:
1. EEA: “Circular by design: Products in the circular economy”. European Environment Agency, Copenhagen, 2017.
2, 7. Quốc hội (2020). Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
3, 4. Đảng Cộng sản Việt nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 331, 143.
5. Nestlé Việt Nam góp sức xây công trình trường học bằng gạch từ sản xuất cà-phê. http://tapchimoitruong.vn. ngày 2/10/2018.
6. HEINEKEN Việt Nam – Hướng tới kinh tế tuần hoàn. http://tapchimoitruong.vn, ngày 02/01/2020.8. Gần 20 doanh nghiệp bị xử phạt nặng vì vi phạm môi trường. https://vneconomy.vn/gan-20-doanh-nghiep-bi-xu-phat-nang-vi-vi-pham-moi-truong.htm, ngày 18/3/2925.