TS. Nguyễn Văn Dũng
Trường Đại học Thành Đô
Nguyễn Ngọc Minh
Học viên cao học Trường Đại học Ngoại thương
(Quanlynhanuoc.vn) – Ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân với các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đột phá, phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân. Đây chính là động lực mới phát triển kinh tế trong thời gian tới, định hình quan điểm mới của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bài viết tập trung làm rõ cơ sở lý luận về kinh tế tư nhân, thực trạng kinh tế tư nhân, nhận diện những hạn chế hiện nay, từ đó, đề xuất nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân, nghị quyết về kinh tế tư nhân.
1. Đặt vấn đề
Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 18/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân (viết tắt là Nghị quyết số 68-NQ/TW) để lại dấu ấn đặc biệt trong đời sống chính trị của đất nước.
Việc chính thức đặt kinh tế tư nhân vào vị trí “trụ cột” sẽ tạo ra không gian phát triển lớn hơn cho khu vực này; là sự khẳng định vai trò trung tâm của khu vực kinh tế tư nhân như một động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Đây không còn là sự khẳng định mang tính khuyến khích mà là một lựa chọn chiến lược, thể hiện tư duy phát triển nhất quán, minh bạch và hiện đại. Để Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của người dân, sự tâm huyết, trăn trở của các nhà quản lý, các nhà khoa học tham mưu với Đảng, Nhà nước có chính sách phù hợp, tìm ra các giải pháp tốt nhất, khơi thông các nguồn lực trong xã hội cho kinh tế tư nhân Việt Nam ngày càng phát triển
2. Cơ sở lý luận về kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân
Theo Từ điển Tiếng Việt, kinh tế tư nhân được định nghĩa là “thành phần kinh tế do tư nhân làm chủ, tự đầu tư, tự tổ chức sản xuất – kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lãi lỗ”1; theo Từ điển Kinh tế học thì kinh tế tư nhân (Private economy) được định nghĩa là “khu vực kinh tế thuộc sở hữu cá nhân hoặc tổ chức không phải là nhà nước, trong đó các chủ sở hữu có quyền kiểm soát, quản lý và hưởng lợi từ hoạt động kinh doanh”2.
Kinh tế tư nhân là hình thức kinh tế thuộc sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (vốn, đất đai, tài sản…); hoạt động trên nguyên tắc thị trường, tự chủ sản xuất, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh; mục tiêu chính là tạo ra lợi nhuận cho chủ sở hữu. Các thành phần của kinh tế tư nhân, bao gồm: cá nhân kinh doanh (hộ cá thể); doanh nghiệp tư nhân; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần không có vốn nhà nước; hợp tác xã (trong một số trường hợp nếu thuộc sở hữu tư nhân).
Vai trò của kinh tế tư nhân góp phần tạo việc làm, giảm thất nghiệp; thúc đẩy sáng tạo, đổi mới công nghệ; tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua thuế và phí; góp phần phát triển kinh tế đất nước, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia. Khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Hiến pháp năm 2013, ghi rõ: (1) Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. (2) Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Điều này khẳng định sự tồn tại hợp pháp và vai trò của kinh tế tư nhân như một thành phần quan trọng trong nền kinh tế.
Ngay từ những năm đầu lập quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn nhận rõ tầm quan trọng của kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” năm 1953, Người khẳng định, kinh tế tư bản tư nhân cũng góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân. Đặc biệt, hiện nay, Nghị quyết số 68-NQ/TW đã xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp theo đó, ngày 17/5/2025, Quốc hội đã có Nghị quyết số 198/2025/QH15 quy định một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, áp dụng cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh. Mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm.
Chính phủ đã có Kế hoạch hành động (Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 19/5/2025) thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW: “Tập trung vào việc đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin và khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới để phát triển kinh tế tư nhân. Các bộ, ngành, địa phương được giao xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể, với mục tiêu lượng hóa rõ ràng và trách nhiệm của người đứng đầu”.
3. Thực trạng và mục tiêu kinh tế tư nhân của Việt Nam
Theo Nghị quyết số 68-NQ/TW và bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc (ngày 18/5/2025) triển khai thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân của Thủ tướng Chính phủ; đồng thời, với báo cáo của Tổng cục Thống kê, cho thấy: tỷ trọng đóng góp GDP năm 2020 là 42% – 43%, tình hình đến năm 2025 là 45%, mục tiêu năm 2030 là 55% GDP; tương ứng thời gian tỷ trọng đầu tư xã hội là 46%, 50% và mục tiêu năm 2030 là 60%; tương tự số lượng doanh nghiệp tư nhân là 0,8 triệu – 1,25 triệu và mục tiêu năm 2030 là 2 triệu doanh nghiệp3. Từ đó, khẳng định, kinh tế tư nhân của nước ta ngày càng phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, khu vực kinh tế tư nhân phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh, đó là:
(1) Quy mô và năng lực cạnh tranh nhỏ bé. Trên 96% doanh nghiệp tư nhân là siêu nhỏ, nhỏ và vừa, khó tạo đột phá; thiếu doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi giá trị; năng lực cạnh tranh quốc tế yếu, chủ yếu gia công, giá trị gia tăng thấp4.
(2) Công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số yếu. Đầu tư R&D thấp, phụ thuộc công nghệ nhập khẩu, lạc hậu; tốc độ chuyển đổi số chậm, chưa bắt kịp xu thế AI, blockchain5.
(3) Quản trị doanh nghiệp và nhân lực hạn chế. Quản trị mang tính gia đình, thiếu minh bạch, thiếu chuyên nghiệp; thiếu nhân lực chất lượng cao, kỹ năng số và kỹ năng mềm yếu, đào tạo chưa gắn với thực tiễn6.
(4) Khó khăn trong tiếp cận nguồn lực. Khó vay vốn do thiếu tài sản bảo đảm, hồ sơ tín dụng yếu; rào cản đất đai, thủ tục hành chính phức tạp, giá thuê đất cao; nguồn lực công nghệ và dữ liệu phân tán, khó khai thác7.
(5) Môi trường pháp lý và thể chế chưa hoàn thiện. Pháp luật còn chồng chéo, xung đột (đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường); cơ chế “xin – cho” còn tồn tại, phát sinh chi phí không chính thức; chưa phân định rõ sai phạm dân sự – hành chính – hình sự8.
(6) Chính sách hỗ trợ thiếu thực chất. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa còn dàn trải, thủ tục phức tạp, khó tiếp cận; chương trình xúc tiến thương mại, đổi mới sáng tạo thiếu chiều sâu, chưa liên kết vùng/ngành9.
4. Những vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế tư nhân hiện nay
Một là, cần thay đổi tư duy, nhận thức về kinh tế tư nhân, xoá bỏ định kiến, tư duy phân biệt giữa các thành phần kinh tế; coi doanh nhân là chiến sĩ, là lực lượng nòng cốt trên mặt trận kinh tế, cần được bảo vệ và tôn vinh đúng mức.
Hai là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo xu hướng hội nhập, bảo đảm quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng; hoàn thiện pháp luật cho các mô hình kinh doanh mới, như công nghệ tài chính, tài sản số, AI, thương mại điện tử.
Ba là, đổi mới chính sách tài chính, tín dụng, đất đai, phát triển thị trường vốn cho doanh nghiệp tư nhân, như trái phiếu, quỹ đầu tư, bảo lãnh tín dụng; minh bạch thị trường đất đai, chuyển đổi số trong quản lý đất đai, cung cấp dữ liệu công khai.
Bốn là, xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo, quỹ đầu tư mạo hiểm; chính sách miễn giảm thuế, ưu đãi cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, công nghệ xanh.
Năm là, tăng cường kết nối giữa các thành phần kinh tế, thiết lập cơ chế liên kết doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, FDI trong chuỗi cung ứng; khuyến khích doanh nghiệp nhà nước và FDI “nội địa hóa”, chuyển giao công nghệ, kỹ năng, quản trị cho doanh nghiệp tư nhân.
Sáu là, phát triển đội ngũ doanh nhân và quản trị doanh nghiệp hiện đại, đào tạo, bồi dưỡng CEO giỏi, có bản lĩnh, tinh thần đổi mới sáng tạo, tuân thủ pháp luật; tạo điều kiện để doanh nhân tham gia đóng góp ý kiến chính sách, tham gia quản trị đất nước.
Bảy là, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ khuyến khích tư nhân mở rộng quy mô phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm tạo ra sung lực mới cho kinh tế tư nhân phát triển.
5. Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân
Thứ nhất, về thể chế hóa và hoàn thiện chính sách.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm đồng bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định, minh bạch, khả thi, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, an toàn, lành mạnh, bình đẳng”, cụ thể hóa chủ trương của Đảng, cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ:
Xây dựng khung pháp lý đồng bộ, minh bạch, ổn định:(1) Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật quan trọng liên quan trực tiếp đến phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Sở hữu trí tuệ… nhằm tạo môi trường pháp lý minh bạch, giảm chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản; (2) Thể chế hóa đầy đủ các quyền hiến định về quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng (Điều 32, 33, 34, 51 Hiến pháp 2013). Đây là nền tảng bảo đảm sự ổn định cho hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân.
Bãi bỏ các rào cản, điều kiện kinh doanh không hợp lý: (1) Thực hiện cắt giảm tối thiểu 30% điều kiện kinh doanh, chi phí tuân thủ pháp luật và thời gian xử lý thủ tục hành chính ngay trong năm 2025, theo định hướng Chính phủ đã nêu trong Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2025 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế – xã hội; (2) Chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, bảo đảm vừa khuyến khích đổi mới sáng tạo vừa nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; (3) Báo cáo Môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới10 cho thấy, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ, nhưng chỉ số thủ tục cấp phép xây dựng, đăng ký tài sản, thực thi hợp đồng vẫn còn thấp hơn mức trung bình của ASEAN-4; (4) Theo Báo cáo cải cách hành chính của Bộ Nội vụ (2024), chi phí tuân thủ thủ tục hành chính chiếm tới 63% chi phí không chính thức của doanh nghiệp11, do đó việc đơn giản hóa điều kiện kinh doanh là yêu cầu cấp bách.
Trách nhiệm giải trình thực hiện nghị quyết (luật) sau một thời gian thực hiện: (1) Cần tăng cường cơ chế giám sát, đánh giá và trách nhiệm giải trình của các cơ quan ban hành, thực thi chính sách, đặc biệt trong việc triển khai các Nghị quyết của Đảng, Luật, Nghị định của Quốc hội, Chính phủ; (2) Quy định rõ trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) về cơ chế báo cáo, đánh giá tác động sau khi luật, nghị quyết đi vào cuộc sống; (3) Quốc hội khóa XV đã yêu cầu Chính phủ báo cáo định kỳ việc thực hiện Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, coi đây là kênh quan trọng để kiểm soát chất lượng chính sách12.
Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật minh bạch, nhất quán, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước theo hướng kiến tạo, liêm chính, phục vụ.
Thứ hai, về tổ chức thực hiện và điều hành.
Nghị quyết số 68-NQ/TW không chỉ xác lập mục tiêu chiến lược rõ ràng về quy mô doanh nghiệp, vai trò kinh tế, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số mà còn quy định lộ trình cụ thể và phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan Đảng và Nhà nước, đồng thời, đưa ra những chính sách mang tính đột phá để tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân mạnh lên, tự tin đầu tư, chuyển đổi mô hình và vươn ra toàn cầu, với các nhiệm vụ cụ thể:
(1) Cải cách hành chính: thúc đẩy cải cách hành chính, thủ tục hành chính, loại bỏ cơ chế “xin – cho”, nhằm xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, thuận lợi. Việc phân cấp, phân quyền được đẩy mạnh đặc biệt trong xử lý thủ tục hành chính, giúp doanh nghiệp tư nhân dễ dàng tiếp cận và thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh doanh;
(2) Đẩy mạnh đối thoại và giám sát thực hiện: các kênh đối thoại giữa Nhà nước – doanh nghiệp, giữa các bộ, ngành với doanh nghiệp đã và đang được thiết lập hiệu quả hơn. Cơ chế này giúp phản hồi nhanh từ phía doanh nghiệp, nhằm điều chỉnh kịp thời chính sách; Cần xây dựng “Chương trình toàn cảnh kinh tế tư nhân Việt Nam” và chỉ số đánh giá việc thực thi Nghị quyết số 68-NQ/TW để theo dõi, giám sát tiến trình và mức độ hiệu quả;
(3) Tăng cường kết nối và nâng cao năng lực doanh nghiệp: Nghị quyết khuyến khích kết nối chuỗi giá trị giữa các doanh nghiệp tư nhân nội địa và với doanh nghiệp FDI; có cơ chế để hỗ trợ các hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi thành doanh nghiệp, bao gồm: tối giản tài chính – kế toán; hỗ trợ pháp lý; cung cấp nền tảng số miễn phí; bỏ thuế khoán để tạo động lực chuyển đổi mô hình hoạt động
(4) Bảo vệ doanh nghiệp an toàn pháp lý: Nghị quyết số 68-NQ/TW khẳng định vai trò của Nhà nước không chỉ là quản lý, mà còn là bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, và bảo đảm an toàn cho giao dịch thương mại; đây là nền tảng chính giúp doanh nghiệp yên tâm mở rộng đầu tư và đổi mới, bởi mục tiêu là sự an toàn để làm ăn lâu dài;
(5) Ban hành chương trình hành động cụ thể tại từng cấp, từng ngành: Chính phủ ban hành chương trình hành động quốc gia, tích hợp các nội dung của Nghị quyết vào chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm, hằng năm; các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch hành động riêng, xác định rõ trách nhiệm, thời gian và nguồn lực.
(6) Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW ở các cấp: Trung ương thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về phát triển kinh tế tư nhân do một Phó Thủ tướng đứng đầu; địa phương thành lập tổ công tác/ban chỉ đạo cấp tỉnh trực thuộc ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố.
(7) Thiết lập cơ chế giám sát, đánh giá thực hiện: giao Bộ Tài chính và bộ, ban, ngành liên quan theo dõi, báo cáo định kỳ lên Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; hoạch định đường lối, chủ trương, biện pháp lớn, quan trọng về phát triển kinh tế tư nhân; thiết lập hệ thống chỉ tiêu thống kê về kinh tế tư nhân làm căn cứ đánh giá.
Thứ ba, huy động và phân bổ nguồn lực.
Nghị quyết số 68-NQ/TW nhấn mạnh việc “Hình thành cơ chế tài chính đặc thù, hỗ trợ vốn, tín dụng, thuế, đất đai nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân”, cụ thể hóa chủ trương của Đảng, cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ:
(1) Bố trí ngân sách và hỗ trợ tài chính: ngân sách nhà nước cần được phân bổ hợp lý để thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, như: Khởi nghiệp sáng tạo: tạo quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, cung cấp vốn ban đầu, tư vấn pháp lý; chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo: hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ mới, ưu đãi thuế cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D); chuyển đổi xanh: thúc đẩy mô hình kinh doanh thân thiện với môi trường, hỗ trợ vốn vay ưu đãi để áp dụng công nghệ sạch; Chính phủ triển khai cơ chế tín dụng ưu đãi, bảo lãnh tín dụng nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp cận vốn vay ngân hàng.
Luật Đất đai năm 2024 đã đưa vào nhiều cơ chế mới để tăng tính công khai, minh bạch, giúp doanh nghiệp tư nhân dễ dàng hơn trong tiếp cận đất đai, theo đó cần: minh bạch hóa dữ liệu đất đai, ứng dụng giao dịch điện tử để giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp tiếp cận mặt bằng sản xuất; hoàn thiện khung pháp lý để hạn chế tình trạng “xin – cho”, tạo môi trường bình đẳng trong tiếp cận đất.
Về tiếp cận vốn, Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài Chính triển khai Đề án phát triển Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam13, theo đó:Phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ bảo lãnh tín dụng; xây dựng chương trình hỗ trợ vốn khởi nghiệp để giảm rủi ro cho doanh nghiệp.
(2) Về tiếp cận công nghệ và đổi mới sáng tạo: Nghị quyết số 68-NQ/TW quy định chi phí R&D được hạch toán gấp đôi, doanh nghiệp được trích tối đa 20% lợi nhuận trước thuế cho Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, theo đó: khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia các chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, chuyển đổi số; tăng hỗ trợ thông qua việc trích quỹ phát triển khoa học – công nghệ, hỗ trợ tiếp cận hạ tầng R&D.
(3) Đào tạo và phát triển nhân lực: Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam 2021-2030 xác định “doanh nghiệp là trung tâm của hệ sinh thái đào tạo nhân lực chất lượng cao”, nhiệm vụ: Đẩy mạnh đào tạo nhân lực theo đơn đặt hàng từ doanh nghiệp; kết nối trường đại học – viện nghiên cứu – doanh nghiệp; xây dựng chương trình đào tạo ngắn hạn, linh hoạt cho lực lượng lao động trong các ngành then chốt (công nghệ cao, năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ số).
Với chủ trương đặt kinh tế tư nhân trong môi trường pháp lý tốt nhất, bảo đảm doanh nghiệp tư nhân được tiếp cận công bằng về vốn, đất đai, công nghệ, nhân lực; phát triển hệ thống quỹ đầu tư, tín dụng ưu đãi; chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao theo nhu cầu thị trường.
Thứ tư, đẩy mạnh truyền thông và thay đổi nhận thức xã hội
Loại bỏ định kiến về kinh tế tư nhân, chuyển từ tư duy coi kinh tế tư nhân là “thành phần bổ sung” sang “một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”14. Theo đó: tuyên truyền, phổ biến tinh thần và nội dung Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân tới toàn xã hội; biểu dương doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu để lan tỏa những điển hình thành công, khuyến khích tinh thần dám nghĩ dám làm; khơi dậy tinh thần khởi nghiệp và cống hiến trong thế hệ trẻ, gắn phát triển doanh nghiệp với trách nhiệm xã hội và đóng góp cho đất nước.
Đưa nội dung phát triển kinh tế tư nhân vào giáo dục, đào tạo, tích hợp vào chương trình đại học, cao đẳng nghề và phổ thông những nội dung về kinh doanh, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; định hướng đào tạo tinh thần doanh nhân gắn trách nhiệm kinh doanh với đạo đức, luật pháp và lợi ích cộng đồng. Nội dung này phù hợp với Chiến lược giáo dục 2021- 2030 và chủ trương phát triển nguồn nhân lực gắn với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ năm, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội và cộng đồng doanh nghiệp
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và hiệp hội doanh nghiệp được xác định là lực lượng quan trọng trong việc giám sát và phản biện xã hội đối với quá trình hoạch định, thực thi chính sách, pháp luật liên quan đến kinh tế tư nhân. Điều này bảo đảm rằng tiếng nói và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp tư nhân được phản ánh và được Nhà nước lắng nghe. Đây là kênh quan trọng để bảo đảm chính sách đi vào thực tiễn và bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp tư nhân.
Xây dựng đội ngũ doanh nhân vững mạnh, đào tạo đội ngũ giám đốc điều hành (CEO) giỏi có năng lực cạnh tranh quốc tế; hỗ trợ kết nối đào tạo, tư vấn pháp lý, khởi nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh chuyển đổi; tôn vinh, khen thưởng những doanh nhân tiêu biểu, chú trọng đạo đức và trách nhiệm xã hội; hình thành văn hóa doanh nhân Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, hội nhập toàn cầu.
Hỗ trợ kết nối và đồng hành cùng doanh nghiệp. Kết nối doanh nghiệp với nhau và với cơ quan quản lý nhà nước; tổ chức đào tạo, tư vấn pháp lý, hỗ trợ khởi nghiệp đặc biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp mới thành lập. Đây là cầu nối quan trọng để doanh nghiệp tiếp cận thông tin, chính sách và các nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước. Xây dựng hình ảnh doanh nhân Việt Nam “có tâm – có tầm”, góp phần nâng cao vị thế khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc gia.
5. Kết luận
Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam không chỉ là yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, mà còn là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Đất nước ta đang “bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra nhiều Nghị quyết quan trọng mang tầm chiến lược được gọi là “bộ tứ trụ cột” giúp đất nước “cất cánh”, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Nghị quyết số 66-NQ/TW hoàn thiện thể chế pháp luật, minh bạch, hiện đại, bảo đảm quyền con người và quyền công dân; Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi là trụ cột tăng trưởng mới; Nghị quyết số 59-NQ/TW mở rộng không gian phát triển thông qua hội nhập quốc tế chủ động, tích cực; Nghị quyết số 68-NQ/TW xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”.
Khi tư duy chiến lược được lan tỏa, khi thể chế được cải cách toàn diện, khi nguồn lực được khai thông và cả hệ thống chính trị, chính quyền và khu vực kinh tế tư nhân đồng kiến tạo, cùng chuyển động theo một mục tiêu chung, chắc chắn Việt Nam sẽ vươn mình mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới.
Chú thích:
1. Hoàng Phê (chủ biên) 2003. Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, tr. 491.
2. Nguyễn Văn Ngãi (2008). Từ điển Kinh tế học. H. NXB. Thống kê, tr. 217.
3. Tổng cục Thống kê (2024). Báo cáo thường niên về năng suất lao động các khu vực kinh tế.
4. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2022). Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam.
5. Ngân hàng Thế giới (2021). Doing Business in Vietnam.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020). Báo cáo Kinh tế tư nhân Việt Nam năm 2020.
7. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2022). Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).
8. Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (2021). Báo cáo Kinh tế tư nhân và môi trường thể chế ở Việt Nam.
9. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2020). SME and Entrepreneurship Policy in Vietnam.
10. Ngân hàng Thế giới (2020). Doing Business 2020.
11. Bộ Nội vụ (2024). Báo cáo Chỉ số Cải cách hành chính (PAR Index).
12. Quốc hội (2023). Báo cáo giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế tư nhân.
13. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 phê duyệt Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Minh Chính (2025). Bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.
Báo Kinh tế và Đô thị, ngày 18/5/2025.
2. Chính phủ (2025). Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2025 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế – xã hội năm 2025.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/12/2011 về xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân Việt Nam.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB. Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/12/2011 về xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân Việt Nam.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
11. Quốc hội (2024). Luật Đất đai năm 2024.
12. Quốc hội (2015). Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
13. Quốc hội (2024). Luật Đất đai năm 2024.
14. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 26.
16. Thủ tướng Chính phủ (2021). Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030.