Mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương và sử dụng quyền lực mềm trong ngoại giao văn hóa Việt Nam – Ả Rập

TS. Trần Thị Thanh Huyền
Trường Đại học Ngoại ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội 

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh toàn cầu hóa và mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương, mềm dẻo và đề cao giá trị văn hóa, quyền lực mềm ngày càng trở thành một trụ cột quan trọng trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. Giai đoạn 2015 – 2020 đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong việc sử dụng quyền lực mềm thông qua ngoại giao văn hóa nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam – Ả Rập, một khu vực có vị trí chiến lược về kinh tế và chính trị nhưng lại có đặc thù về văn hóa, tôn giáo. Bài viết tập trung phân tích các hoạt động nổi bật như giao lưu văn hóa, hợp tác giáo dục và truyền thông giữa Việt Nam – Ả Rập, đồng thời làm rõ vai trò của ngoại giao văn hóa như một công cụ triển khai quyền lực mềm, góp phần nâng cao vị thế quốc gia và tạo dựng nền tảng đối thoại bền vững. 

Từ khóa: Ngoại giao; chính trị; quyền lực mềm; Việt Nam; Ả Rập.

1. Đặt vấn đề

Sang thế kỷ XXI, hoạt động ngoại giao của các quốc gia đã chuyển từ ngoại giao truyền thống về chính trị và kinh tế sang phương thức mềm dẻo, giàu tính biểu tượng hơn. Trong đó, ngoại giao văn hóa được coi như một công cụ chiến lược quan trọng của quyền lực mềm nhằm nâng cao hình ảnh quốc gia, thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau và củng cố quan hệ hợp tác quốc tế. Ngoại giao văn hóa đã trở thành xu hướng quan trọng trong quan hệ đối ngoại hiện đại.

Trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, ngoại giao văn hóa đã trở thành cầu nối hiệu quả để thiết lập đối thoại và hợp tác quốc tế. Ả Rập, khu vực với tổng dân số khoảng 480 triệu người (tính đến năm 2024)1. Đây là khu vực có nền văn minh lâu đời, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa Hồi giáo. Các quốc gia Ả Rập đặc biệt giữ vai trò quan trọng trong các tổ chức như OPEC (Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ), Liên Hợp quốc và Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC)… Đồng thời, cũng là trung tâm của các vấn đề chiến lược toàn cầu, như: an ninh năng lượng, tôn giáo và di cư. Tuy nhiên, sự khác biệt văn hóa, khoảng cách địa lý, lịch sử đã tạo nên những rào cản nhất định trong mối quan hệ Việt Nam – Ả Rập. Từ bối cảnh đó, việc vận dụng quyền lực mềm thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa trở thành chiến lược trong chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Ả Rập. 

Giai đoạn 2015 – 2020 là giai đoạn có tiến triển tích cực trong ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam và các nước Ả Rập. Điều này được thể hiện qua các chương trình trao đổi văn hóa, hợp tác giáo dục, tham gia diễn đàn đa phương và quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam tại khu vực này. Một số hoạt động và chương trình nổi bật, như: Ngày văn hóa Việt Nam; hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp Halal hay việc đưa tiếng Ả Rập và văn hóa Ả Rập vào giảng dạy tại một số trường đại học tại Việt Nam. Tuy nhiên, các hoạt động này chưa phát huy đầy đủ tiềm năng của quyền lực mềm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với Ả Rập. Từ các hoạt động giao lưu, hợp tác giữa Việt Nam – Ả Rập, bài viết phân tích và đánh giá hiệu quả của những hoạt động này trong việc xây dựng hình ảnh quốc gia và củng cố quan hệ song phương. Qua đó, làm rõ vai trò của ngoại giao văn hóa góp phần nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. 

2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Trong nghiên cứu quan hệ quốc tế hiện đại, khái niệm quyền lực mềm (soft power) và ngoại giao văn hóa (cultural diplomacy) đã trở thành hai trụ cột lý thuyết quan trọng để lý giải chiến lược mở rộng ảnh hưởng của các quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. 

Khái niệm quyền lực mềm được Joseph S. Nye giới thiệu lần đầu vào năm 1990. Theo Nye, quyền lực mềm là khả năng định hình sở thích của người khác thông qua sức hấp dẫn, thay vì cưỡng ép hay chi trả vật chất2. Quyền lực mềm được hiểu là năng lực của một chủ thể (thường là quốc gia) trong việc gây ảnh hưởng đến hành vi và lựa chọn của các chủ thể khác thông qua sức hấp dẫn về văn hóa, giá trị và chính sách, thay vì sử dụng cưỡng ép quân sự hoặc lợi ích vật chất trực tiếp. Khác với quyền lực cứng dựa trên trừng phạt và phần thưởng hữu hình, quyền lực mềm vận hành trên cơ sở thuyết phục và đồng thuận, tạo nên ảnh hưởng lâu dài bằng cách khiến các đối tượng tự nguyện lựa chọn theo định hướng mà chủ thể quyền lực mong muốn.

Trong bối cảnh các quốc gia ngày càng cạnh tranh bằng hình ảnh và sự ảnh hưởng được thay cho vũ lực thì quyền lực mềm trở thành công cụ chiến lược để xây dựng lòng tin, thiết lập quan hệ và định hình dư luận quốc tế. Vì vậy, ngoại giao văn hóa là một dạng của ngoại giao công chúng (public diplomacy), trong đó các hoạt động giao lưu văn hóa được sử dụng như một công cụ để thúc đẩy quan hệ giữa các quốc gia. Ngoại giao văn hóa là sự trao đổi các ý tưởng, thông tin, nghệ thuật, lối sống và các yếu tố văn hóa khác nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau3. Khác với tuyên truyền chính trị, ngoại giao văn hóa đề cao sự tương tác hai chiều và xây dựng hình ảnh quốc gia một cách mềm dẻo. Ngoại giao văn hóa không chỉ phục vụ lợi ích chiến lược mà còn góp phần xây dựng bản sắc quốc gia tích cực trên trường quốc tế. Đối với Việt Nam, việc quảng bá bản sắc văn hóa qua các sự kiện, hợp tác giáo dục, du lịch, văn hóa là phương tiện hiệu quả để nâng cao vị thế trên thế giới. 

Qua các tài liệu công khai của Chính phủ Việt Nam và các báo cáo của tổ chức quốc tế (ASEAN, OIC, Liên đoàn Ả Rập), các tài liệu khoa học liên quan; bài viết sử dụng phương pháp định tính kết hợp với phân tích các mục tiêu chiến lược, các chương trình ngoại giao giáo dục, văn hóa… để làm rõ cách vận dụng quyền lực mềm của Việt Nam thông qua ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với Ả Rập trong giai đoạn 2015 – 2020. 

3. Quyền lực mềm trong ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam – Ả Rập (giai đoạn 2015 -2020)

Việt Nam và các nước Ả Rập có quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp với nhiều mối liên kết về lịch sử, chính trị và ủng hộ lẫn nhau trong các diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên, sự khác biệt về văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ đòi hỏi cần có những chiến lược ngoại giao tăng cường hiểu biết giữa các dân tộc. Từ năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 20304. Cùng với chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế, Việt Nam chú trọng hơn đến việc khai thác vai trò của ngoại giao văn hóa như một kênh quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới và cả các nước Ả Rập. Trong giai đoạn 2015 – 2020, quan hệ giữa Việt Nam và Ả Rập không chỉ phát triển về mặt kinh tế – thương mại mà còn mở rộng hợp tác giao lưu văn hóa, giáo dục… Các hoạt động ngoại giao đã góp phần định hình hình ảnh Việt Nam tại khu vực này, đồng thời thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong việc vận dụng quyền lực mềm như một phần trong chính sách đối ngoại đa phương hóa. 

3.1. Một số lĩnh vực ngoại giao

(1) Lĩnh vực văn hóa, truyền thông: tuần lễ Văn hóa Việt Nam tại Ai Cập năm 2017, gồm các hoạt động biểu diễn nghệ thuật dân tộc, chiếu phim Việt Nam, triển lãm ảnh và thủ công mỹ nghệ. Chương trình bao gồm các hoạt động biểu diễn nghệ thuật dân gian, giới thiệu tranh Đông Hồ, nhạc cụ truyền thống được các kênh truyền thông của Egypt Today và Nile TV đưa tin, góp phần nâng cao hình ảnh văn hóa Việt Nam trong giới học thuật và công chúng Ai Cập. 

Tại Lễ hội Văn hóa quốc tế Sakia ở Trung tâm Văn hóa El Sawy, Thủ đô Cairo (Ai Cập), Đại sứ quán Việt Nam đã giới thiệu nhiều tài liệu, sách, ảnh và hiện vật về văn hóa, lịch sử, đất nước và con người Việt Nam với lịch sử hào hùng cùng các thành tựu nổi bật của Việt Nam. Ngoài sách quảng bá về du lịch, Việt Nam còn giới thiệu các điểm đến hấp dẫn cũng như những nét văn hóa đặc sắc của các vùng miền, bên cạnh đó còn có các tài liệu, bản đồ giới thiệu biển đảo Việt Nam5. Đặc biệt, trong lễ hội, Ban Tổ chức đã trình chiếu video clip “Welcome to Vietnam” và bộ phim ngắn giới thiệu với bạn bè quốc tế về thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Danh nhân Văn hóa thế giới6

Năm 2018 – 2019, tại Hội chợ Sách Quốc tế Sharjah và Abu Dhabi, Việt Nam đã giới thiệu các tác phẩm văn học (dịch sang tiếng Ả Rập). Sự kiện còn kết hợp tổ chức tọa đàm văn học, giao lưu và giới thiệu tên tuổi các nhà văn nổi tiếng của Việt Nam nhằm tăng cường đối thoại giữa các nền văn hóa, đồng thời thúc đẩy dịch thuật và trao đổi xuất bản phẩm. Ngoài ra, Việt Nam còn hợp tác sản xuất và phát sóng phim tài liệu Vietnam: Traditions and Harmony (Việt Nam – Hồn quê trong di sản) trên các nền tảng số của Al Jazeera Media Network (năm 2019) Documentary. Đây là một trong những sản phẩm truyền thông đầu tiên của Việt Nam tiếp cận được công chúng Ả Rập một cách có hệ thống với trên 500.000 lượt xem chỉ trong vòng 3 tháng7. Chương trình góp phần khắc họa hình ảnh Việt Nam hòa bình, đa dạng văn hóa, giàu bản sắc. Sự kiện này cũng mở đường cho hợp tác truyền thông đa phương giữa Việt Nam và các tổ chức báo chí lớn ở Ả Rập.

(2) Lĩnh vực giáo dục và đào tạo: nhiều chương trình đào tạo văn hóa, ngôn ngữ, nghệ thuật được hợp tác, như: học bổng một năm tại các trường đại học Ai Cập, Kuwait, Qatar; học bổng học hai tháng tại Oman…; hỗ trợ giảng viên Ả Rập đến từ trường Đại học Al-Azhar (Ai Cập) nghiên cứu, làm việc tại Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội; hợp tác với Đại sứ quán Ả Rập tổ chức thường niên Chương trình World Arabic Language Day; hợp tác giữa Trường Đại học Giáo dục Nghệ thuật Quốc gia và Đại học Alexandria, Ai Cập nhằm phát triển hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, trao đổi giảng viên và sinh viên văn hóa, nghệ thuật…

(3) Lĩnh vực du lịch: các sự kiện như Hội chợ Du lịch Quốc tế Việt Nam (VITM) thường niên tại Hà Nội đã thu hút sự tham gia của các nước Ả Rập (UAE, Ai Cập và Saudi Arabia) nhằm quảng bá tiềm năng hợp tác và trao đổi khách du lịch. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cử đoàn xúc tiến du lịch tham gia Hội chợ Du lịch Ả Rập (Arabian Travel Market – ATM) tại Dubai. Trong đó, năm 2019, lần đầu tiên Việt Nam có gian hàng quốc gia giới thiệu văn hóa, ẩm thực và sản phẩm du lịch Halal đến thị trường Trung Đông. Lượng du khách từ các nước GCC (Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh) đến Việt Nam là 6.000 lượt người trong năm 20198

3.2. Sức mạnh mềm trong chính sách ngoại giao Việt Nam – Ả Rập

Chiến lược sức mạnh mềm của Việt Nam trong quan hệ với Ả Rập giai đoạn 2015 – 2020 dựa trên ba trụ cột chính: bản sắc văn hóa dân tộc, giá trị hòa bình và khả năng thích ứng linh hoạt. Đây là những yếu tố then chốt giúp Việt Nam xây dựng hình ảnh một quốc gia có chiều sâu văn hóa, chủ động hội nhập nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng9

Thứ nhất, yếu tố bản sắc văn hóa được thể hiện thông qua việc giới thiệu các sản phẩm văn hóa đặc trưng như nhạc cụ truyền thống, nghệ thuật dân gian, ẩm thực và các nghề truyền thống của dân tộc tại các sự kiện song phương. 

Thứ hai, Việt Nam khẳng định giá trị hòa bình trong chính sách đối ngoại thông qua nguyên tắc không can thiệp, tôn trọng chủ quyền và cam kết phát triển bền vững. Điều này tạo ra sự cộng hưởng với Ả Rập, khu vực vốn đặc biệt nhạy cảm. 

Thứ ba, khả năng thích ứng linh hoạt thể hiện ở cách tiếp cận hợp tác, giao lưu, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Việt Nam không cố gắng truyền bá giá trị một chiều mà tạo điều kiện để đối tác tiếp cận văn hóa Việt theo hướng song phương như việc dịch và giới thiệu tác phẩm văn học Việt sang tiếng Ả Rập là các hình thức tiếp cận linh hoạt, đáp ứng nhu cầu bản địa hóa nội dung văn hóa. 

Các hoạt động ngoại giao trên nhiều lĩnh vực không chỉ giúp tăng cường sự hiện diện của Việt Nam tại Trung Đông – Bắc Phi mà còn thể hiện chiến lược văn hóa bài bản, góp phần định vị Việt Nam là một đối tác văn hóa tích cực, thân thiện với các quốc gia Hồi giáo. Chiến lược sử dụng quyền lực mềm của Việt Nam trong quan hệ với Ả Rập không chỉ góp phần mở rộng ngoại giao, sự ảnh hưởng mà còn củng cố vị thế quốc gia trong bối cảnh cạnh tranh chính trị ngày càng gay gắt. 

3.3. Thách thức trong triển khai quyền lực mềm văn hóa Việt Nam với Ả Rập

Bên cạnh những kết quả tích cực, chính sách triển khai ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam và các quốc gia Ả Rập trong giai đoạn 2015 – 2020 vẫn đối mặt với một số thách thức.

Một là, sự khác biệt về văn hóa và tôn giáo giữa Việt Nam và các quốc gia Ả Rập, đặc biệt liên quan đến đạo Hồi, đặt ra những yêu cầu quan trọng trong việc xây dựng và triển khai các chương trình ngoại giao văn hóa. Các quy định nghiêm ngặt về trang phục, thực phẩm Halal, nghi lễ tôn giáo đều là những yếu tố cần được quan tâm. Nếu không có sự tham vấn với cộng đồng sở tại, các hoạt động giao lưu có thể vô tình vi phạm chuẩn mực văn hóa địa phương. Điều này làm giảm hiệu quả của chiến lược quyền lực mềm. Do vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực có hiểu biết liên văn hóa và xây dựng các bộ tiêu chí hành vi phù hợp là vô cùng cần thiết.

Hai là, tại Việt Nam hiện nay chỉ có hai cơ sở đào tạo chuyên sâu về ngôn ngữ và văn hóa Ả Rập là Trường Đại học Ngoại ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Do quy mô đào tạo còn nhỏ nên nguồn nhân lực có trình độ tiếng Ả Rập và hiểu biết sâu về khu vực đang thiếu hụt. Vì vậy, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc mở rộng quy mô đào tạo và đầu tư cho khu vực học tập và nâng cao hiẻu biết các nền văn hóa Ả Rập là yêu cầu mang tính chiến lược.

Ba là, trong khi một số quốc gia trong khu vực như Trung Quốc và Hàn Quốc đã triển khai mạng lưới trung tâm văn hóa chính thức tại các nước Ả Rập (UAE, Saudi Arabia, Jordan, Tunisia, Ai Cập), giúp họ nâng cao quyền lực mềm thông qua giảng dạy ngôn ngữ, sự kiện văn hóa và tiếp cận văn hóa bản địa thì Việt Nam chưa thiết lập được cơ sở hạ tầng văn hóa tại các nước Ả Rập. Điều này tạo nên khoảng trống lớn trong việc lan tỏa giá trị văn hóa và hình ảnh Việt Nam tại khu vực Trung Đông – Bắc Phi.

Bốn là, các biến động địa chính trị tại nhiều quốc gia Ả Rập, như: Syria, Yemen, Libya hay Iraq đã và đang tạo ra những thách thức lớn đối với việc triển khai ngoại giao văn hóa cho Việt Nam. Tình trạng xung đột vũ trang, bất ổn chính trị và căng thẳng tôn giáo, sắc tộc kéo dài không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế – xã hội sở tại mà còn làm gián đoạn các hoạt động giao lưu văn hóa song phương hoặc đa phương đang rất cần môi trường ổn định để phát triển bền vững. Trong bối cảnh đó, hoạt động ngoại giao văn hóa đòi hỏi cần có tính linh hoạt cao để duy trì sự hiện diện văn hóa Việt Nam một cách bền vững và an toàn. 

Năm là, một trong những đặc thù quan trọng của ngoại giao văn hóa là tính liên ngành và tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau trong quá trình xây dựng và triển khai chính sách. Ngoại giao văn hóa không chỉ là nhiệm vụ riêng của Bộ Ngoại giao hay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch mà còn cần sự tham gia tích cực từ các trường đại học (với vai trò nghiên cứu, đào tạo và tư vấn chính sách), các doanh nghiệp (nhất là trong lĩnh vực du lịch, truyền thông, công nghiệp sáng tạo) cùng các tổ chức xã hội và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế phối hợp liên ngành giữa các chủ thể này tại Việt Nam vẫn còn thiếu chặt chẽ, thiếu quy trình vận hành cụ thể và chưa có đầu mối điều phối thống nhất. Việc thiếu đồng bộ trong việc phân bổ nguồn lực, chia sẻ thông tin và xác định mục tiêu chung làm giảm hiệu quả tổng thể của quá trình thực hiện chiến lược quyền lực mềm. 

Những thách thức trên cho thấy, nhu cầu cấp thiết về một chiến lược quyền lực mềm có tầm nhìn dài hạn, chú trọng phát triển năng lực nội sinh, nâng cao hiểu biết liên văn hóa và xây dựng cơ chế phối hợp thể chế hiệu quả nhằm giúp Việt Nam tiếp cận sâu hơn vào các không gian văn hóa, tôn giáo đặc thù như  Ả Rập.

4. Kết luận và kiến nghị một số giải pháp

Quyền lực mềm được xem như công cụ thiết yếu để tăng cường hiểu biết lẫn nhau trong quan hệ song phương. Những kết quả đạt được trong giai đoạn 2015 – 2020 cho thấy sự chủ động và linh hoạt của Việt Nam trong việc thích ứng với môi trường văn hóa, tôn giáo đặc thù – Hồi giáo. Từ đó khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của ngoại giao văn hóa trong chính sách đối ngoại đa phương và tích cực hội nhập. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả và bảo đảm tính bền vững của chiến lược quyền lực mềm tại Ả Rập, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp, như:

Thứ nhất, xây dựng chiến lược ngoại giao văn hóa tổng thể, chuyên biệt cho khu vực Ả Rập.Chiến lược cần có sự phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành và tổ chức xã hội nhằm bảo đảm thống nhất mục tiêu, phân bổ nguồn lực hợp lý và phát huy sức mạnh tổng hợp.

Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu về ngôn ngữ, văn hóa và khu vực học Ả Rập. Đẩy mạnh đào tạo ngôn ngữ, văn hóa Ả Rập; tuyển chọn, bồi dưỡng cán bộ làm việc dài hạn tại các đại sứ quán, trung tâm văn hóa, viện nghiên cứu trong khu vực.

Thứ ba, xây dựng cổng thông tin văn hóa, giáo dục, du lịch bằng tiếng Ả Rập; phát triển nội dung số phù hợp với tiêu chuẩn văn hóa Hồi giáo để nâng cao sự hiện diện trên không gian số.

Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác văn hóa, giáo dục. Phát triển các sản phẩm phù hợp với thị hiếu Ả Rập như sách, thời trang, ẩm thực Halal; thiết lập Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại các thủ đô lớn. Đồng thời, hợp tác với các nền tảng truyền thông lớn ở Ả Rập

Thứ năm, mở rộng hợp tác học thuật và tham gia các diễn đàn văn hóa quốc tế. Thúc đẩy trao đổi học thuật, thành lập viện nghiên cứu liên ngành; chủ động tham gia các diễn đàn đa phương nhằm nâng cao vị thế và xây dựng đối tác chiến lược với Ả Rập.

Chú thích: 

1. United Nations Economic and Social Commission for Western Asia (2024), Demographic trends in the Arab region: 1950 – 2030. https://www.unescwa.org/sites/default/files/pubs/pdf/demographic-trends-arab-region-1950-2030-english.pdf. 

2. Nye, J. S. (2004). Soft power: The means to success in world politics. PublicAffairs, tr. 5.

3. Melissen, J. (Ed.) (2005), The new public diplomacy: Soft power in international relations (tr. 1), Palgrave Macmillan.

4. Thủ tướng Chính phủ (2015). Quyết định số 210/QĐ-TTg ngày 08/02/2015 phê duyệt Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030.

5. Bộ Ngoại giao (2017). Báo cáo hoạt động ngoại giao văn hóa. Hà Nội.

6. Việt Nam gây ấn tượng mạnh tại Lễ hội Văn hóa quốc tế ở Ai Cập. https://vietnamtourism.gov.vn/post/22891. 

7. Al Jazeera Media Network (2019). Media report. Doha: Al Jazeera Media Network.

8. Tăng cường hiệu quả hợp tác du lịch giữa Việt Nam và các nước GCC. https://bvhttdl.gov.vn/tang-cuong-hieu-qua-hop-tac-du-lich-giua-viet-nam-va-cac-nuoc-gcc-20221215214339132.htm.

9. Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030,https://tdtt.gov.vn/chi-dao-dieu-hanh/hoat-dong-nganh/id/16832/chien-luoc-van-hoa-doi-ngoai-cua-viet-nam-den-nam-2020-tam-nhin-den-2030