Thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị” ở Học viện Biên phòng 

TS. Thiếu tướng Nguyễn Xuân Bách
Chính ủy Học viện Biên phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia là nhiệm vụ chiến lược, trọng yếu, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó lực lượng Bộ đội Biên phòng giữ vai trò nòng cốt. Để thực hiện tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin tưởng giao phó, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng đã quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, trong đó thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo Học viện Biên phòng gắn chất lượng đào tạo với thực tiễn thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới. Dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Học viện đã tập trung đổi mới giáo dục – đào tạo theo phương châm “Chất lượng đào tạo của Nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, coi đó không chỉ là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt mà còn là cam kết chính trị, thể hiện rõ quan điểm gắn đào tạo với thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo giá trị, nhằm góp phần xây dựng lực lượng Bộ đội Biên phòng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ biên cương Tổ quốc trong tình hình mới.

Từ khóa: Phương châm; chất lượng đào tạo; khả năng sẵn sàng chiến đấu; Học viện Biên phòng.

1. Thực hiện phương châm đã đi vào chiều sâu, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện

Học viện Biên phòng là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của lực lượng Bộ đội Biên phòng; đơn vị thường trực sẵn sàng chiến đấu của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Suốt quá trình xây dựng và phát triển, Học viện đã đào tạo hàng vạn cán bộ, sĩ quan cho lực lượng Biên phòng, hàng trăm cán bộ cho quân đội các nước Lào, Campuchia. Trước yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Học viện đã quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhất là Nghị quyết số 1675-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong giai đoạn mới, Kế hoạch số 619/KH-TM ngày 09/4/2021 của Bộ Tổng Tham mưu về thực hiện phương châm: “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, Nghị quyết số 776-NQ/ĐU ngày 24/3/2023 của Đảng ủy Bộ đội Biên phòng về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới và Nghị quyết số 220-NQ/ĐU ngày 01/4/2022 về lãnh đạo thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”; tiếp đó, Kế hoạch số 771/KH-HVBP ngày 12/4/2022 của Học viện Biên phòng xác định thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, trong đó chương trình đào tạo phải hướng tới mục tiêu duy nhất là bảo đảm học viên sau khi tốt nghiệp có thể ngay lập tức đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu tại đơn vị cơ sở. Sản phẩm của quá trình đào tạo là năng lực thực tiễn của cán bộ, học viên; thước đo chất lượng đào tạo là khả năng chỉ huy, hiệp đồng, tác chiến, quản lý địa bàn, tiến hành công tác dân vận, đấu tranh phòng, chống tội phạm biên giới, xử lý tình huống an ninh phi truyền thống… của mỗi học viên khi tốt nghiệp ra trường. Từ đó, tổ chức thực hiện quyết liệt chủ trương “Dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất kết quả dạy và học” gắn với thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, thường xuyên quán triệt và thực hiện hiện tốt 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong huấn luyện, đào tạo1.

2. Thực trạng kết quả đào tạo, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của các học viên tại Học viện Biên phòng

Trong giai đoạn 2021 – 2025, Học viện đã đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp day học, từng bước đạt nhiều kết quả tích cực. Tập trung “chuẩn hóa” và “địa bàn hóa” chương trình đào tạo theo khung năng lực thực tiễn. Nội dung, đào tạo được thiết kế dựa trên bốn nhóm năng lực cốt lõi: chỉ huy -tham mưu biên phòng; kỹ thuật, chiến thuật tác chiến; quản lý, bảo vệ biên giới và pháp luật; công tác dân vận – đối ngoại biên giới. Các học phần được điều chỉnh theo hướng gắn với từng loại hình địa bàn, loại bỏ những nội dung trùng lặp, bổ sung, cập nhật những nội dung mới của Luật Biên phòng Việt Nam, nghị định của Chính phủ thi hành Luật Biên phòng Việt Nam và quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về các hình thức, biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 của Bộ Chính trị về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”; tình hình thực tiễn công tác, chiến đấu của lực lượng Bộ đội Biên phòng.

Bên cạnh đó, Học viện cũng chú trọng nâng cao năng lực ngoại ngữ, pháp luật quốc tế và kỹ năng đối ngoại biên giới cho học viên. Các lớp học ngoại ngữ và tiếng dân tộc thiểu số gắn liền với tình huống thực hành như lập biên bản hiện trường song ngữ, đàm phán giải quyết vụ việc nhỏ lẻ, trao đổi thông tin cứu hộ, cứu nạn. Các học phần luật biên giới, điều ước quốc tế được gắn trực tiếp với các kịch bản tuần tra chung, bàn giao người, tang vật hay phối hợp xử lý sự cố trên tuyến biên giới. Điều đó giúp học viên không chỉ tiếp thu kiến thức lý luận mà còn hình thành bộ kỹ năng ứng dụng sát với đặc thù đơn vị công tác sau khi tốt nghiệp, nhanh chóng thích ứng và triển khai hoạt động đối ngoại biên giới ngay khi đảm nhiệm cương vị mới.

Về phương pháp dạy học, đội ngũ giảng viên đã sử dụng phổ biến phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học viên trong từng bài học, từng nội dung. Chủ động điều chỉnh kế hoạch, phương pháp huấn luyện, diễn tập linh hoạt, thích ứng an toàn trong mọi điều kiện; tăng huấn luyện thực hành, huấn luyện kỹ, chiến thuật chiến đấu binh chủng hợp thành, huấn luyện theo khung đồn, giảm lý thuyết, tăng truyền thụ kinh nghiệm thực tế cho học viên. Hằng năm, Học viện đã mời cấp lãnh đạo Bộ Tư lệnh Bộ tư lệnh Biên phòng, các cơ quan nghiệp vụ cấp trên, Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố về nói chuyện chuyên đề, truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn trên các tuyến biên giới, vùng biển, đảo cho cán bộ, giảng viên, học viên để kịp thời cập nhật kiến thức thực tiễn, tăng cường liên kết giữa nhà trường -đơn vị – địa phương. Việc kiểm tra, đánh giá đã chuyển từ đánh giá chủ yếu khả năng ghi nhớ lý thuyếtsang đánh giá dựa trên năng lực thực hiện nhiệm vụ. 

Trong quá trình học tập, mỗi học viên đều trải qua giai đoạn thực tập chức vụ tại các đồn biên phòng, trực tiếp tham gia công tác quản lý, vận động quần chúng, đấu tranh chống tội phạm. Đặc biệt, học viên phải thực hiện các các nội dung, tình huống diễn tập tổng hợp sát thực tế công tác chiến đấu của Bộ đội Biên phòng. Thông qua các đợt diễn tập để mô phỏng toàn bộ chu trình nhiệm vụ trinh sát, cảnh giới, tổ chức lực lượng, xử trí tình huống như buôn lậu, ma túy, di cư trái phép, tụ tập đông người, thậm chí giả định bạo loạn vũ trang quy mô nhỏ, buộc học viên phải ra quyết định nhanh trong điều kiện áp lực, căng thẳng. Các cuộc diễn tập có sự phối hợp với các lực lượng, chính quyền địa phương và giao lưu nghiệp vụ với lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng đã giúp học viên rèn luyện năng lực phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ biên phòng hiện nay. 

Cùng với đó, Học viện cũng chú trọng rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống và sức bền tâm lý cho học viên. Thông qua các môđun huấn luyện trong điều kiện khắc nghiệt, áp lực lớn để học viên được thử thách ý chí, bản lĩnh và khả năng giữ vững nguyên tắc pháp luật trong tình huống căng thẳng. Các cuộc thảo luận tình huống đạo đức nghề nghiệp hay những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích giúp học viên hình thành năng lực ứng xử đúng luật, đúng điều lệnh và đúng chuẩn mực. Qua đó, phẩm chất chính trị, ý thức kỷ luật và văn hóa ứng xử của học viên ngày càng vững vàng, bảo đảm tính tin cậy trong chỉ huy và công tác khi về cơ sở.

Để nâng cao chất lượng đào tạo, Học viện thường xuyên đưa cán bộ, giảng viên đi thực tế để nâng cao kinh nghiệm. Công tác bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ giảng viên được quan tâm về cả nội dung, phương pháp và hình thức. Duy trì nghiêm nền nếp kiểm tra, dự giờ, đánh giá giảng viên với hàng trăm lượt kiểm tra, dự giờ, lấy ý kiến phản hồi từ học viên đối với giảng viên, cán bộ quản lý học viên. Đồng thời, Học viện đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật mô phỏng, xây dựng học liệu số và tham gia chuyển đổi số trong giảng dạy. Việc gắn kết chặt chẽ giáo dục – đào tạo tại Học viện với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu ở đơn vị cơ sở đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Những kết quả trên đã trực tiếp góp phần phát triển phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ, sĩ quan Biên phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sau khi tốt nghiệp. Theo đánh giá của Học viện, các khóa tốt nghiệp năm 2025 đều đáp ứng chuẩn đầu ra, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đủ thể lực, kiến thức, kỹ năng để có thể nhận định, đánh giá, xử lý tình huống thực tế đặt ra khi đảm nhận cương vị được phân công, nhất là có khả năng lập và triển khai phương án tác chiến, phối hợp liên ngành – liên biên giới, xử lý tình huống nhanh, đúng pháp luật và phù hợp với đặc thù địa bàn; nhiều đồng chí có kết quả học tập, rèn luyện tốt, được khen thưởng của Bộ Quốc phòng, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng và của Học viện. 

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện phương châm vẫn còn bộc lộ không ít hạn chế. Việc quán triệt, triển khai nghị quyết, kế hoạch thực hiện phương châm của một số đơn vị có thời điểm chưa thực sự quyết liệt, kết quả thực hiện một số nội dung, nhiệm vụ chưa cao. Chương trình đào tạo chưa tích hợp đủ các kiến thức liên ngành, đáp ứng yêu cầu toàn diện của thực tiễn. Khoảng cách giữa đào tạo và thực tiễn đơn vị vẫn tồn tại, một bộ phận học viên còn lúng túng trong xử lý tình huống phức tạp. Bản lĩnh chính trị và năng lực “chịu đựng sức ép” của học viên trong môi trường tác chiến thực sự vẫn còn hạn chế; một số học viên giỏi lý thuyết, thao tác quân sự thuần thục nhưng còn thiếu vững vàng về tâm lý, kỹ năng ứng xử pháp luật và xử trí linh hoạt trước tình huống bất ngờ. Trình độ ngoại ngữ, kiến thức pháp luật quốc tế và kỹ năng đối thoại của một bộ phận học viên chưa đáp ứng yêu cầu.

 Nguyên nhân chủ yếu là do phạm vi tiếp cận thực tế chưa bao quát được các tình huống đặc thù,thời gian thực tập chức vụ còn ngắn. Công tác tổng kết, phản hồi từ đơn vị về nhà trường chưa thành yêu cầu bắt buộc, dẫn tới một số nội dung đào tạo chậm được điều chỉnh phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn. Giảng viên am hiểu sâu về công nghệ số, luật pháp quốc tế, đối ngoại biên giới, kỹ năng truyền thông còn ít, cơ chế trao đổi giảng viên, cán bộ giữa nhà trường và đơn vị biên phòng chưa thường xuyên. Cơ sở vật chất, trang thiết bị và công nghệ phục vụ đào tạo vẫn còn những hạn chế nhất định. Các thao trường, bãi tập còn thiếu điều kiện để tổ chức diễn tập liên hợp quy mô lớn, trong khi yêu cầu thực tiễn ngày càng cao về khả năng hiệp đồng tác chiến đa lực lượng, đa quốc gia. 

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện phương châm trong thời gian tới

Trước tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, mau lẹ và bất thường, tiềm ẩn nhiều nhân tố phức tạp, như: chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh phi đối xứng, an ninh phi truyền thống nổi lên gay gắt,… đặt ra cho công tác đào tạo sĩ quan Biên phòng những yêu cầu ngày càng khắt khe và toàn diện hơn. Thêm vào đó, địa bàn biên giới còn tiềm ẩn nhiều nhân tố phức tạp như hoạt động của tội phạm xuyên quốc gia, buôn lậu, khủng bố, di cư trái phép, an ninh mạng biên giới, biến đổi khí hậu, dịch bệnh… đòi hỏi sĩ quan Biên phòng không chỉ giỏi tác chiến, quản lý địa bàn mà còn phải am hiểu luật pháp quốc tế, công nghệ số, quản lý rủi ro và kỹ năng phối hợp đa ngành. Đội ngũ này không chỉ làm nhiệm vụ trên lãnh thổ mà còn tham gia nhiều hoạt động hợp tác quốc tế, tuần tra liên hợp, giải quyết sự kiện pháp lý – ngoại giao tại biên giới. Do đó, nâng cao hiệu quả phương châm “Chất lượng đào tạo là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị” là con đường để biến tri thức nhà trường thành năng lực chiến đấu cụ thể của đơn vị cơ sở, bảo đảm đội ngũ sĩ quan Biên phòng đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia trong tình hình mới. 

Để thực hiện được điều đó, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong tổ chức triển khai thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”. Phương châm này phản ánh sự thống nhất giữa mục tiêu đào tạo với mục tiêu quốc phòng, giữa chuẩn mực chuẩn đầu ra với yêu cầu thực tiễn công tác, chiến đấu. Do đó, Học viện cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa và thực hiện nghiêm các chủ trương của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng, cùng các đề án, kế hoạch về công tác giáo dục, đào tạo… Trên cơ sở đó, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng, phát huy tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo, quyết liệt của cấp ủy, chỉ huy và người đứng đầu trong “tiếp tục thực hiện hiệu quả phương châm và chủ trương “Dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất kết quả dạy và học”2. Đẩy mạnh xây dựng mô hình nhà trường tinh, gọn, mạnh, chuyên sâu, thông minh, hiện đại, “Mẫu mực, tiêu biểu”, gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. 

Hai là, tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo theo hướng “thực chiến hóa”.Chương trình đào tạo cần cập nhật sát với thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ biên giới trong bối cảnh mới, bám chắc đối tượng, địa bàn, nhiệm vụ chiến đấu của Bộ đội Biên phòng, nhất là “Rà soát, điều chỉnh, bổ sung nội dung, chương trình đào tạo cho các đối tượng theo chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu liên quan đến thay đổi chính quyền địa phương 2 cấp, Ban Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh và Ban Chỉ huy phòng thủ khu vực”3. Điều này đòi hỏi chương trình không chỉ trang bị kiến thức quân sự, pháp luật, ngoại ngữ, tiếng dân tộc thiểu số, khoa học xã hội – nhân văn mà còn phải tích hợp tri thức mới về an ninh phi truyền thống, công nghệ thông tin, chuyển đổi số, công tác đối ngoại biên phòng, quản lý cửa khẩu, đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên biên giới. Thường xuyên rà soát, tinh giản nội dung đào tạo, bổ sung các chuyên đề thực tiễn, tình huống sát với môi trường công tác, tránh hàn lâm, lý thuyết suông, bảo đảm cho học viên ra trường có thể nhanh chóng thích ứng, hoàn thành nhiệm vụ.

Phương pháp giảng dạy hiện đại phải kết hợp hài hòa giữa thuyết giảng với thảo luận nhóm, học theo tình huống, thực hành thao trường, diễn tập, mô phỏng chiến thuật, huấn luyện ban đêm…; kiên quyết chuyển từ lối “thầy đọc – trò chép” sang giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm, coi học viên là chủ thể của quá trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng. Qua đó, học viên không chỉ nắm vững lý thuyết mà còn hình thành kỹ năng xử trí tình huống, rèn luyện bản lĩnh, tác phong người sĩ quan chỉ huy. Đồng thời, đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, chuyển mạnh từ kiểm tra ghi nhớ kiến thức sang đánh giá năng lực vận dụng, sáng tạo, khả năng giải quyết vấn đề. 

Đổi mới phương pháp dạy học còn gắn liền với ứng dụng công nghệ thông tin và phương tiện kỹ thuật hiện đại. Việc xây dựng học liệu số, lớp học ảo, mô phỏng huấn luyện, phần mềm quản lý đào tạo, cùng với hệ thống giảng đường, thao trường, bãi tập, trung tâm điều hành huấn luyện hiện đại sẽ tạo môi trường học tập tương tác, trực quan, nâng cao hiệu quả giảng dạy. Đồng thời, chủ động mở rộng quan hệ với các học viện, nhà trường quân sự trong khu vực và thế giới để trao đổi kinh nghiệm, giảng viên, học viên; triển khai các chương trình liên kết đào tạo, tập huấn, diễn tập song phương, đa phương để nâng cao trình độ ngoại ngữ, tích lũy kinh nghiệm làm việc trong môi trường quốc tế cho học viên.

Ba là, chú trọng rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và kỹ năng ứng xử pháp luật cho học viên. Học viện cần coi đây là yếu tố then chốt để biến kiến thức thành năng lực sẵn sàng chiến đấu thực tế. Trong bối cảnh các thế lực thù địch gia tăng “chiến lược phi vũ trang”, sử dụng công nghệ truyền thông, mạng xã hội để kích động, xuyên tạc, chống phá, việc giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị, kỹ năng truyền thông, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái cần được chú trọng. Do đó, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu, rèn luyện bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức, tác phong công tác, khả năng thích ứng nhanh với nhiệm vụ mới bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Các hoạt động đó cần gắn với rèn luyện học viên trong môi trường căng thẳng, áp lực cao để giúp họ hình thành khả năng kiên định, lập trường vững vàng, bình tĩnh xử lý mọi tình huống phức tạp. Tăng cường huấn luyện kỹ năng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, kỹ năng sử dụng truyền thông trong bảo vệ chủ quyền và an ninh biên giới, chú trọng rèn luyện học viên thông qua các hoạt động thực tiễn ở mỗi cơ quan, đơn vị, nhất là đơn vị quản lý học viên.

Bốn là, tăng cường gắn kết giữa quá trình đào tạo của nhà trường với thực tiễn đơn vị. Đây là sự “gắn kết hai chiều”, trong đó thực tiễn đòi hỏi nhà trường đổi mới chương trình, phương pháp, còn chất lượng đào tạo của nhà trường lại quyết định trực tiếp đến khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh quản lý, bảo vệ biên giới. Do đó, cần mở rộng thời gian và nội dung thực tập chức vụ, tổ chức mô hình “trải nghiệm thực tiễn biên giới” cho học viên ngay từ các năm học đầu. Mỗi khóa đào tạo phải có sự tham gia trực tiếp của chỉ huy đơn vị biên phòng, thông qua các chuyên đề thực tế, huấn luyện phối hợp hoặc diễn tập tại địa bàn trọng điểm. Đồng thời, xây dựng cơ chế phản hồi hai chiều giữa nhà trường và đơn vị: đơn vị biên phòng định kỳ báo cáo yêu cầu, khó khăn, tình huống phát sinh để Học viện điều chỉnh kịp thời nội dung, phương pháp giảng dạy. xây dựng cơ chế đánh giá chất lượng đào tạo gắn trực tiếp với năng lực công tác tại đơn vị. Sau khi tốt nghiệp, sĩ quan biên phòng cần được theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị, từ đó Học viện định kỳ tổng kết, đối chiếu, rút kinh nghiệm để điều chỉnh chương trình đào tạo một cách khoa học, khách quan và sát thực tiễn.

Năm là, xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, ngang tầm nhiệm vụ. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, tạo nguồn, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ, giảng viên phải gắn chặt với yêu cầu thực tiễn. Tăng cường tập huấn, bồi dưỡng, cử đi học, thực tế, luân chuyển, điều động cán bộ từ đơn vị về Học viện và ngược lại để phát huy kinh nghiệm, nâng cao trình độ lý luận và thực tiễn. Chú trọng xây dựng đội ngũ giảng viên chuyên sâu về công nghệ số, luật pháp quốc tế, ngoại ngữ, an ninh phi truyền thống. Nâng cao tỷ lệ cán bộ có trình độ sau đại học, đạt chuẩn Giáo sư, Phó Giáo sư, danh hiệu Nhà giáo Ưu tú; đồng thời tăng cường năng lực ngoại ngữ, tin học. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học lý luận Biên phòng, phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Chú trọng phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, vừa tham gia giảng dạy, nghiên cứu, vừa đóng góp vào các đề án kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ, công nghiệp quốc phòng, hiện đại hóa Quân đội.

Sáu là, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị huấn luyện. Đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin, học liệu số, hệ thống giảng đường, thao trường, Trung tâm điều hành huấn luyện, thư viện điện tử, phòng học chuyên dùng, bảo đảm môi trường học tập, rèn luyện chính quy, hiện đại. Đồng thời, tiếp tục mở rộng, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Học viện với Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố, với các học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội. Từng bước xây dựng hệ thống mô phỏng tác chiến biên giới trên nền tảng công nghệ số, tạo “môi trường huấn luyện ảo” cho học viên thực hành xử lý tình huống phức tạp, trang bị đồng bộ các phương tiện trinh sát, thông tin liên lạc hiện đại để học viên làm quen ngay trong quá trình đào tạo. Mặt khác, cần phát triển thao trường tổng hợp, bãi tập dã ngoại liên hợp để tổ chức diễn tập quy mô lớn, nâng cao khả năng hiệp đồng nhiều lực lượng, nhiều thành phần.

Thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị” tại Học viện Biên phòng không chỉ là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn là sự cụ thể hóa quan điểm của Đảng về gắn đào tạo với thực tiễn, lấy hiệu quả chiến đấu làm thước đo cao nhất. Trước đòi hỏi của thực tiễn, việc kiên định và vận dụng sáng tạo phương châm này chính là con đường đúng đắn để xây dựng đội ngũ cán bộ biên phòng vững vàng về bản lĩnh, toàn diện về năng lực, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống. Do đó, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp với sự nỗ lực cao của các tổ chức, các lực lượng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bảo đảm cho Học viện Biên phòng luôn xứng đáng là trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học hàng đầu, góp phần quan trọng vào xây dựng lực lượng Bộ đội Biên phòng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thật sự xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc.

Chú thích:

1. Học viện Biên phòng (2024). Báo cáo số 2021-BC/HVBP ngày 15/8/2024 sơ kết thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”.

2, 3. Học viện Biên phòng (2025). Báo cáo số 1780-BC/HVBP ngày 22/7/2025 về Tổng kết năm học 2024  2025.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (2018). Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”.

2. Bộ Tổng Tham mưu (2021). Kế hoạch số 619/KH-TM ngày 09/4/2021 về thực hiện phương châm: “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”.

3. Đảng ủy Bộ đội Biên phòng (2022). Nghị quyết số 220-NQ/ĐU ngày 01/4/2022 về lãnh đạo thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”.

4. Đảng ủy Bộ đội Biên phòng (2023). Nghị quyết số 776-NQ/ĐU ngày 24/3/2023 về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới.

5. Học viện Biên phòng (2022). Kế hoạch số 771/KH-HVBP ngày 12/4/2022 xác định thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị.

6. Quân ủy Trung ương (2022). Nghị quyết số 1675-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 về đổi mới công tác giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong giai đoạn mới.

7. Quốc hội (2020). Luật Biên phòng Việt Nam năm 2020.