NCS. Lê Hoài Nghĩa
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Đổi mới nội dung, chương trình giáo dục – đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới là quan điểm, đường lối nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước; trong tổng thể nội dung, chương trình giáo dục – đào tạo thì đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là nội dung, biện pháp quan trọng để ứng dụng khoa học – công nghệ vào đổi mới giáo dục đại học hiện nay. Bài viết làm rõ vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao, thực trạng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để ứng dụng khoa học – công nghệ vào đổi mới giáo dục đại học thời gian qua; từ đó, đề xuất một số nội dung, biện pháp nâng cao đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để ứng dụng khoa học – công nghệ vào đổi mới giáo dục đại học hiện nay.
Từ khóa: Nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới giáo dục đại học.
1. Đặt vấn đề
Mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển đều quan tâm, chú trọng đến nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, nâng tầm vị thế trong cộng đồng thế giới. Hiện nay, trước sự phát triển như vũ bão của khoa học – công nghệ, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có ý nghĩa cấp bách hơn bao giờ hết. Một trong những điều kiện bảo đảm cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là đổi mới giáo dục đại học hiện nay. Đảng khẳng định: “Xây dựng chiến lược dữ liệu phục vụ cho chuyển đổi số và phát triển nền tảng giáo dục quốc gia ứng dụng trí tuệ nhân tạo có kiểm soát; bố trí đủ nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ để đẩy nhanh chuyển đổi số, phổ cập và ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong quản lý, tổ chức hoạt động giáo dục – đào tạo ở tất cả các cấp học trên phạm vi cả nước”1.
2. Mối quan hệ giữa khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao
Khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại, không tách rời nhau. Khoa học – công nghệ phát triển được ứng dụng vào các hoạt động khác nhau của đời sống xã hội là sự phản ánh chất lượng giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được nâng lên; ngược lại, nguồn nhân lực chất lượng cao phát triển khả năng ứng dụng, sử dụng khoa học – công nghệ được mở rộng, đi vào chiều sâu. Do đó, khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập, bổ sung, hỗ trợ và thúc đẩy cùng phát triển, hướng đến xây dựng một xã hội phát triển trên nền tảng công nghệ số.
Hiện nay, trước sự phát triển của khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đặt ra cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tương ứng với trình độ phát triển của thế giới rất cao, nếu không có nguồn nhân lực chất lượng cao khó có thể sử dụng, ứng dụng khoa học – công nghệ một cách phù hợp, hiệu quả. Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: “chúng ta phải coi khoa học – công nghệ đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chủ chốt. Đây chính là “chìa khóa vàng”, là yếu tố sống còn để vượt qua bẫy thu nhập trung bình và nguy cơ tụt hậu, đồng thời hiện thực hóa khát vọng hùng cường và thịnh vượng của dân tộc ta”2.
Giáo dục – đào tạo là môi trường thuận lợi để khoa học – công nghệ phát triển, sáng tạo ra những công nghệ mới phục vụ hữu ích cho đời sống con người; chính sự phát triển của khoa học – công nghệ thúc đẩy cho giáo dục – đào tạo không ngừng đổi mới nội dung, chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để ứng dụng, sử dụng khoa học – công nghệ hiện đại. Khi khoa học – công nghệ phát triển thì chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cao cũng phát triển theo, là cơ sở, tiền đề cho sự ra đời, phát triển của những ngành đào tạo mới.
Khoa học – công nghệ chính là mảnh đất để kiểm nghiệm, chứng minh cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực chất lượng cao không thể phát triển, không có môi trường phát triển nếu thiếu sự phát triển của khoa học – công nghệ. Do đó, trong quá trình phát triển, xây dựng chiến lược phát triển khoa học – công nghệ cũng đồng thời đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Khoa học – công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chính là “chìa khóa” của thành công, cánh cửa mở ra sự phát triển mới của đất nước.
Đại học phải trở thành trung tâm sản sinh tri thức công nghệ, là hạt nhân đổi mới sáng tạo – khởi nghiệp; gắn chặt đào tạo – nghiên cứu – chuyển giao với nhu cầu phát triển đất nước. Cần hình thành những đại học lớn có tầm vóc khu vực và quốc tế, những cơ sở đào tạo nghề hiện đại để đào tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao, góp phần đưa đất nước bứt phá trong khoa học – công nghệ, công nghiệp hóa và chuyển đổi số3. Giáo dục đại học phát triển mạnh mẽ nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học – công nghệ sẽ góp phần hiện thực hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Khi nguồn nhân lực chất lượng cao có trình độ, năng lực việc ứng dụng, sử dụng khoa học – công nghệ được thuận lợi, dễ dàng; các trang thiết bị máy móc hiện đại, thực hành chuyển đổi số vào từng môn học của sinh viên được nâng lên giúp cho việc tích hợp tài liệu, dữ liệu, văn bản, hướng dẫn của cấp trên đến với các đối tượng, lực lượng cũng thuận tiện hơn; việc quản lý chương trình giáo dục – đào tạo, xây dựng môi trường giáo dục tiện ích giúp cho sinh viên tra cứu thông tin, tài liệu, không cần đến thư viện. Vì vậy, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở các trường đại học luôn đi trước một bước để thúc đẩy khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ.
3. Thực tiễn đào tạo nguồn nhân lực
Từ sau công cuộc đổi mới, giáo dục và đào tạo không ngừng mở rộng mạng lưới, nâng cao chất lượng, từng bước hội nhập quốc tế4. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học đã quán triệt và nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để ứng dụng khoa học – công nghệ vào thực hiện nhiệm vụ giáo dục – đào tạo phục vụ hữu ích cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Nhiều khoa học – công nghệ được nghiên cứu, ứng dụng ở các trường đại học đã được chuyển giao ra bên ngoài, góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
Các cơ sở giáo dục – đào tạo có nhiều hình thức, biện pháp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, như: đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các trường đại học thế giới; dành học bổng cho sinh viên; giữ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở lại trường hoặc liên hệ với các doanh nghiệp phân công, giao nhiệm vụ cho sinh viên tốt nghiệp xuất sắc ngay sau khi ra trường; tôn vinh, biểu dương sinh viên có thành tích trong học tập, rèn luyện…gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường với xã hội để tăng tính thực tiễn cho sinh viên. Khuyến khích, động viên, khích lệ cán bộ, giảng viên, sinh viên phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học, học tập.
Hằng năm, các trường đại học đều tổ chức những buổi hội thảo khoa học, mời các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp tham gia đóng góp ý kiến vào nội dung, chương trình giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong quá trình công tác, nhiều cán bộ, giảng viên, sinh viên luôn nỗ lực cố gắng vươn lên, chủ động khắc phục khó khăn, gian khổ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, học tập. Nhiều sản phẩm khoa học – công nghệ của cán bộ, giảng viên, sinh viên có giá trị thực tiễn sâu sắc, được ứng dụng vào đời sống xã hội. Qua đó, góp phần quan trọng vào việc khẳng định vị trí, vai trò của ngành giáo dục – đào tạo đối với sự nghiệp kiến tạo đất nước, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng khoa học – công nghệ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; tạo ra năng suất, chất lượng sản phẩm cao không những ở thị trường trong nước mà còn ở thị trường ngoài nước.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng khoa học – công nghệ vào đổi mới giáo dục đại học còn một số hạn chế, như: một số trường đại học chưa gắn việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao với phát triển khoa học – công nghệ, còn có sự tách bạch riêng lẻ; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và ứng dụng khoa học – công nghệ chưa được đầu tư xứng tầm; chưa có sự đồng hành của doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để tham mưu, đề xuất, góp ý với cơ quan, ban, ngành liên quan lựa chọn đào tạo những ngành mà xã hội đang cần, đang thiếu.
Khoa học – công nghệ khi được nghiên cứu triển khai chưa được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội, chưa phục vụ hữu ích sản xuất, kinh doanh, bảo vệ môi trường. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, giảng viên, sinh viên chưa có hứng thú, động lực trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ. Khoa học – công nghệ vẫn chủ yếu được ứng dụng, sử dụng ở khu vực thành phố, thành thị còn ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn xa lạ, đồng bào chưa được tiếp cận. Giáo dục đại học đổi mới chậm, liên kết đào tạo – nghiên cứu – thị trường lao động chưa chặt chẽ. Phương pháp dạy học ở nhiều nơi chưa khuyến khích sáng tạo và năng lực tự học. Cơ sở vật chất, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế còn hạn chế, bất cập. Có giai đoạn giáo dục chưa phát huy đầy đủ vai trò động lực cho phát triển5.
4. Một số biện pháp
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, kinh tế tri thức, khoa học – công nghệ và chuyển đổi số phát triển mạnh mẽ, giáo dục và đào tạo càng phải giữ vững vị trí quốc sách hàng đầu, trở thành động lực then chốt để phát triển đất nước6.
Một là, cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học – công nghệ vào hoạt động giáo dục – đào tạo của mỗi trường đại học.
Nghị quyết số 71-NQ/TW xác định: “đưa các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo thành một trọng tâm trong chiến lược, quy hoạch, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển trên các lĩnh vực và ưu tiên bố trí nguồn lực thực hiện”7. Các chủ thể, lực lượng các trường đại học cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng thành mục tiêu, nhiệm vụ sát hợp với đặc điểm, tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục – đào tạo đặt ra.
Thống nhất nhận thức, hành động trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng khoa học – công nghệ vào đổi mới giáo dục đại học phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hiện thực hóa khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Các cơ quan, ban và ngành Giáo dục hành động mạnh mẽ, quyết liệt, thay đổi tư duy nhận thức, cách thức, biện pháp xây dựng chương trình giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để học hỏi kinh nghiệm; bám sát thực tiễn vận động, phát triển của xã hội để lựa chọn những ngành mà xã hội đang cần.
Các trường đại học căn cứ vào tính chất, phạm vi ảnh hưởng và nhu cầu thực tế của xã hội để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; tránh đào tạo tràn lan, ồ ạt, không có trọng tâm, trọng điểm dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, sinh viên loại giỏi tốt nghiệp ra trường không tìm được đúng ngành đào tạo để làm việc. Phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bổ sung cho các cơ sở khoa học – công nghệ phát minh, sáng chế ra những công cụ, phương tiện, phục vụ hữu ích cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng nhằm nâng cao năng xuất lao động và không ngừng cải tiến đời sống của Nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”8.
Hai là, đổi mới nội dung, chương trình giáo dục – đào tạo phù hợp, hiệu quả với xu thế vận động, phát triển của thế giới, đất nước.
Thế giới luôn vận động, phát triển và thực tiễn trong nước liên tục có sự thay đổi, đòi hỏi nội dung, chương trình giáo dục và đào tạo đại học cũng cần đổi mới phù hợp với xu thế chung của thế giới. Nghị quyết số 71-NQ/TW cũng xác định: “Mở rộng, đa dạng hóa và làm sâu sắc hơn các cơ chế hợp tác quốc tế trong giáo dục – đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong hệ thống giáo dục quốc dân phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam”8. Với tinh thần này, các trường đại học thường xuyên cập nhật, bổ sung nội dung, chương trình giáo dục – đào tạo. Trên cơ sở nội dung, chương trình giáo dục – đào tạo đã được xây dựng từ trước, cần điều chỉnh, phát triển những thông tin, dữ liệu quan trọng vào từng môn học, từng nội dung; bảo đảm các thông tin, số liệu liên tục được cập nhật, không bị lỗi thời, lạc hậu. Đội ngũ giảng viên ở các trường đại học phát huy tinh thần, trách nhiệm của bản thân, là người trực tiếp lên lớp cần thấy rõ những nội dung nào là phù hợp, nội dung nào không còn phù hợp để kiến nghị với cơ quan, ban, ngành có thẩm quyền làm mới nội dung giáo dục – đào tạo.
Ứng dụng mạnh mẽ khoa học – công nghệ, chuyển đổi số vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, vừa để cung cấp kiến thức, vừa để rèn luyện kỹ năng, kỷ xảo thực hành công nghệ thông tin của cán bộ, giảng viên, sinh viên; kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành; nhà trường kết hợp với doanh nghiệp và xã hội; huy động sự tham gia của doanh nghiệp vào xây dựng chương trình giáo dục – đào tạo; mở rộng liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài, trường đại học quốc tế để tham khảo, học hỏi kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong ứng dụng khoa học – công nghệ để đổi mới giáo dục đại học; tổ chức những buổi đối thoại, lắng nghe ý kiến của cán bộ, giảng viên, sinh viên, doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng khoa học – công nghệ; từ đó, điều chỉnh, bổ sung, xây dựng nội dung giáo dục – đào tạo phù hợp, hiệu quả, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao về nhận thức, hành động trong các chủ thể, lực lượng. Tổ chức khảo sát ở các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước về nguồn nhân lực chất lượng cao là sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường về công tác ở những nơi đó; từ đó, đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở những khóa tiếp theo.
Ba là, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong ứng dụng khoa học – công nghệ để đổi mới giáo dục đại học.
Một trong những nội dung, biện pháp quan trọng của Nghị quyết số 71-NQ/TW là: “Tập trung hoàn thiện các quy định pháp luật để kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, cơ chế, chính sách; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và thực thi pháp luật; thúc đẩy đổi mới sáng tạo và kiến tạo phát triển giáo dục và đào tạo”9.
Các trường đại học cần chủ động cụ thể hóa những cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước thành mục tiêu, nhiệm vụ ở từng ngành, lĩnh vực. Có cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với những tập thể, cá nhân tham gia nghiên cứu khoa học; bảo đảm đầy đủ các điều kiện cơ sở vật chất, tài liệu cho các nhóm nghiên cứu khoa học – công nghệ; đẩy mạnh hợp tác và phát triển nghiên cứu khoa học – công nghệ giữa các trường đại học với các tổ chức quốc tế, viện nghiên cứu, doanh nghiệp trong nước; ban hành quy chế phối kết hợp trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện để bảo đảm quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia hợp tác nghiên cứu khoa học – công nghệ.
Xây dựng các tiêu chí đánh giá đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để ban hành cơ chế, chính sách và các yêu cầu về trình độ, năng lực của người tham gia đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; có cơ chế, chính sách tôn vinh, biểu dương những tập thể, cá nhân có tinh thần đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; hằng năm tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao với ứng dụng khoa học – công nghệ vào đổi mới giáo dục đại học; phân loại, đánh giá các công trình khoa học – công nghệ xứng tầm với công sức, trí tuệ của các tập thể, cá nhân để tạo động lực trong nghiên cứu khoa học. Tham mưu, đề xuất với cấp có thẩm quyền trong việc điều chỉnh, bổ sung, hỗ trợ kinh phí cho việc tham gia nghiên cứu khoa học – công nghệ; nguồn nhân lực chất lượng cao được quyền lựa chọn môi trường công tác sau khi tốt nghiệp ra trường.
5. Kết luận
Sự phát triển hùng cường, thịnh vượng của đất nước là sự hội tụ của nhiều yếu tố cấu thành, trong đó giáo dục – đào tạo cần phải đi trước một bước trong kiến tạo, thực hiện đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng khoa học – công nghệ, chuyển đổi số vào thực tiễn cuộc sống. Phát triển mạnh mẽ nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng về các lĩnh vực hoạt động của đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đảng xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt quyết định tương lai dân tộc. Hơn bao giờ hết, chúng ta phải coi đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai, cho sự phát triển bền vững và hùng cường của đất nước10.
Chú thích:
1, 7, 9. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
2. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. https://baochinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-hoi-nghi-toan-quoc-ve-dot-pha-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-va-chuyen-doi-so-quoc-gia-102250113125610712.htm.
3, 4, 5, 6, 10. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ Kỷ niệm 80 năm truyền thống ngành Giáo dục, đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất và khai giảng năm học mới 2025-2026. https://dangcongsan.org.vn/bogiaoducdaotao/tin-tuc-hoat-dong/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-le-ky-niem-80-nam-truyen-thong-nganh-giao-duc-va-khai-giang-nam-hoc-2025-2.html.
8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 97.