Lê Diệu Linh
Trường Đại học Dân lập Đông Đô
(Quanlynhanuoc.vn) – Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đồng thời, vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp với phân cấp, phân quyền mạnh hơn và phát huy tính chủ động của các tỉnh. Trong bối cảnh đó, công tác quản trị và thực thi phát triển ngoại giao kinh tế càng trở nên quan trọng, vừa phải gắn kết với định hướng chiến lược quốc gia, vừa phải phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương. Nghiên cứu về quản trị phát triển ngoại giao kinh tế của chính quyền cấp tỉnh không chỉ bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả trong quản trị quốc gia mà còn góp phần đề xuất các giải pháp đổi mới nhằm khai thác tối đa tiềm năng địa phương, tạo sức mạnh tổng hợp cho đất nước trong tiến trình hội nhập và phát triển bền vững.
Từ khóa: Quản trị phát triển, ngoại giao kinh tế, chính quyền địa phương, cấp tỉnh, vấn đề, định hướng nghiên cứu.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cùng với sự vận động phức tạp, khó lường của môi trường chính trị – kinh tế quốc tế, vấn đề quản trị phát triển ngoại giao kinh tế của chính quyền địa phương cấp tỉnh ở Việt Nam nổi lên như một yêu cầu tất yếu và cấp thiết. Đây không chỉ là nhiệm vụ quản lý đơn thuần mà còn là giải pháp chiến lược để mỗi địa phương có thể thích ứng, tận dụng cơ hội, hóa giải thách thức, qua đó đóng góp trực tiếp vào sự phát triển chung của đất nước trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là định hướng chiến lược được Đảng và Nhà nước được xác định rõ. Mô hình chính quyền địa phương hai cấp đang được vận hành với xu hướng phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn cho các địa phương đặt ra yêu cầu cao về năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm và sáng tạo trong quản trị phát triển kinh tế. Trong đó, chính quyền cấp tỉnh trở thành chủ thể quan trọng trong việc kiến tạo môi trường đầu tư, xúc tiến thương mại, hợp tác quốc tế và thực thi hiệu quả các cam kết hội nhập. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, vai trò của chính quyền cấp tỉnh không chỉ dừng lại ở việc tiếp nhận chính sách từ trung ương mà cần chủ động đề xuất sáng kiến, triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế phù hợp với đặc thù, lợi thế và nhu cầu phát triển của địa phương.
2. Những thành tựu của phát triển ngoại giao kinh tế của chính quyền địa phương cấp tỉnh hiện nay
Trong gần bốn thập kỷ qua, quản trị ngoại giao kinh tế của chính quyền địa phương cấp tỉnh ở Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần trực tiếp vào phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Một số địa phương được thí điểm cơ chế đặc thù, như: TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ, Thanh Hóa, Nghệ An… đã tận dụng tốt lợi thế để xây dựng, hoàn thiện thể chế và bộ máy quản trị ngoại giao kinh tế. Trong đó, ban hành chính sách ưu tiên xúc tiến đầu tư, thương mại, mở rộng hợp tác quốc tế, tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Song song với đó, nhiều tỉnh không áp dụng cơ chế đặc thù nhưng vẫn nổi bật nhờ năng lực quản trị năng động, điển hình như Quảng Ninh, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bình Dương… với mức tăng trưởng GDP cao và vai trò dẫn dắt trong xuất khẩu hàng hóa. Những thành tựu khái quát chung, bao gồm:
Thứ nhất, về thể chế và chính sách. Các địa phương đã vận dụng sáng tạo, cụ thể hóa đường lối hội nhập quốc tế của Đảng thành chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của địa phương. Tỉnh Quảng Ninh tiên phong với mô hình “một cửa, liên thông” cho quản lý đầu tư – thương mại biên giới. Tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang đã tạo hành lang pháp lý “trải thảm đỏ” cho doanh nghiệp công nghệ cao, thu hút các tập đoàn điện tử toàn cầu1. Bình Dương hướng đến trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu Việt Nam nhằm thúc đẩy hệ sinh thái công nghiệp và dịch vụ công nghệ cao cho Bình Dương và Việt Nam2.
Thứ hai, về cải cách bộ máy quản trị. Nhiều tỉnh đã kiện toàn Sở Ngoại vụ và thành lập các trung tâm xúc tiến đầu tư – thương mại – du lịch. Các mô hình như: “tổ công tác đặc biệt”3 của Quảng Ninh hay “trung tâm hành chính công” của Bắc Ninh giúp cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ, qua đó nâng cao niềm tin cho doanh nghiệp và nhà đầu tư4.
Thứ ba, về huy động nguồn lực. Ngoại giao kinh tế của chính quyền địa phương cấp tỉnh đã góp phần đưa Quảng Ninh trở thành địa phương đi đầu cả nước về phát triển đặc khu kinh tế, đưa Vân Đồn tiến sát mục tiêu trở thành đặc khu kinh tế đầu tiên tại Việt Nam, với vốn hạ tầng hàng tỷ USD. Tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang thành “cứ điểm” sản xuất toàn cầu của Samsung, Foxconn. Tỉnh Thái Nguyên đón nhiều tập đoàn công nghệ cao; tỉnh Bình Dương nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước về FDI nhiều năm liên tiếp. Những thành tựu này cho thấy ngoại giao kinh tế ở cấp tỉnh đã góp phần khai thác hiệu quả nguồn vốn, công nghệ và thị trường quốc tế, tạo động lực quan trọng cho phát triển kinh tế – xã hội…
Thứ tư, về thực thi, giám sát và phòng chống tham nhũng. Nhiều địa phương chú trọng số hóa thủ tục hành chính, giảm cơ hội nhũng nhiễu trong phát triển ngoại giao kinh tế. Quảng Ninh triển khai mô hình “chính quyền điện tử”, liên thông dữ liệu quản lý để nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình5. Các nỗ lực chống tham nhũng ở cấp trung ương cũng tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực, củng cố lòng tin của nhà đầu tư và cộng đồng quốc tế đối với cấp địa phương.
Như vậy, thành tựu quản trị ngoại giao kinh tế của chính quyền cấp tỉnh thể hiện ở các trụ cột chính: xây dựng và đổi mới thể chế, chính sách đối ngoại kinh tế; kiện toàn bộ máy quản trị; huy động hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước; nâng cao năng lực thực thi gắn với minh bạch, phòng chống tham nhũng… Đây chính là minh chứng rõ nét cho sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong việc cụ thể hóa đường lối hội nhập quốc tế của Đảng; đồng thời, khẳng định vai trò tiên phong của ngoại giao kinh tế trong phát triển bền vững ở nước ta hiện nay.
3. Những lợi thế của phát triển ngoại giao kinh tế của chính quyền địa phương cấp tỉnh
Một là, lợi thế về thể chế và khuôn khổ pháp lý.Việt Nam sau khi gia nhập ASEAN (1995) và WTO (2007) đã chủ động hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và nhiều văn bản hướng dẫn phù hợp chuẩn mực quốc tế, tạo sự minh bạch và ổn định trong môi trường kinh doanh, qua đó giúp địa phương yên tâm thu hút và giữ chân nhà đầu tư quốc tế.
Hai là, lợi thế về bộ máy quản lý và cải cách hành chính. Các tỉnh đã thành lập các đơn vị chuyên trách ngoại giao kinh tế, củng cố mạng lưới cơ quan đại diện ở nước ngoài, đồng thời triển khai cải cách hành chính, hải quan điện tử, cơ chế một cửa giúp giảm chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp địa phương.
Ba là, lợi thế về đội ngũ nhân sự có năng lực và phẩm chất thực thi công tác ngoại giao kinh tế. Việt Nam đã xây dựng được đội ngũ cán bộ ngoại giao và quản lý kinh tế đối ngoại có trình độ, am hiểu luật pháp quốc tế, ngoại ngữ và văn hóa, đủ năng lực tham gia đàm phán và thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP. Đây là nguồn lực then chốt để các địa phương triển khai hiệu quả các cam kết quốc tế.
Bốn là, lợi thế về định hướng chiến lược. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển ngoại giao kinh tế ở cấp địa phương được thể hiện rõ trong các nghị quyết quan trọng của Đảng, như: Nghị quyết số 22-NQ/TW (2013), Nghị quyết số 06-NQ/TW (2016) và Nghị quyết số 59-NQ/TW (2025), qua đó, cung cấp định hướng chiến lược, cơ chế phối hợp trung ương – địa phương trong triển khai ngoại giao kinh tế.
Năm là, lợi thế về truyền thông và quảng bá hình ảnh ra quốc tế.Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn như APEC 2017, chủ tịch ASEAN 2020, đồng thời, các địa phương chủ động tổ chức diễn đàn đầu tư, hội chợ thương mại, kết nối kiều bào, qua đó, góp phần nâng cao hình ảnh địa phương và củng cố niềm tin của đối tác quốc tế.
Sáu là, lợi thế về năng lực thực thi chính sách ngoại giao kinh tế. Các địa phương đã chủ động tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đưa hàng hóa vào những thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Canada; đồng thời, thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu quốc tế…
Bảy là, lợi thế trong huy động nguồn lực phát triển ngoại giao kinh tế. Việt Nam đã ký nhiều hiệp định thương mại tự do, quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện với nhiều quốc gia đã thu hút được dòng vốn FDI, ODA, đồng thời, khai thác hiệu quả nguồn lực tri thức, tài chính và quan hệ quốc tế từ cộng đồng hơn 5,3 triệu kiều bào.
Tám là, lợi thế về giám sát và phòng, chống tham nhũng. Tiến trình hội nhập quốc tế tạo động lực cho Việt Nam minh bạch hóa quản trị, cải cách thủ tục hành chính, hải quan – thuế quan, đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế trong xử lý gian lận thương mại, điều tra và thu hồi tài sản tham nhũng. Đồng thời, chiến dịch phòng chống tham nhũng được triển khai quyết liệt trong những năm gần đây đã củng cố lòng tin xã hội và tăng niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với môi trường đầu tư ở địa phương.
4. Những hạn chế và thách thức
Những hạn chế thể hiện ở nhiều khía cạnh, từ cơ chế, chính sách cho đến tổ chức bộ máy, nhân lực, phương thức thực thi, truyền thông, huy động nguồn lực và kiểm tra, giám sát. Đây là những “điểm nghẽn” cần sớm được nhận diện và tháo gỡ để địa phương phát huy tốt hơn vai trò trong hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế vùng, liên vùng.
Thứ nhất, chưa hoàn thiện thể chế, cơ chế và chính sách ngoại giao phát triển kinh tế địa phương. Dù một số tỉnh, thành phố, như: TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Cần Thơ được thí điểm cơ chế đặc thù, nhưng việc thực thi ngoại giao kinh tế ở nhiều địa phương vẫn bị giới hạn bởi địa giới hành chính và sự phân cấp, phân quyền chưa đầy đủ từ trung ương. Nền kinh tế hiện đại mang tính liên vùng và xuyên biên giới, trong khi cơ chế quản trị phát triển ngoại giao kinh tế của các địa phương vẫn chủ yếu bó hẹp trong phạm vi tỉnh.
Thứ hai, bất cập về tổ chức bộ máy làm công tác ngoại giao kinh tế. Thực tế trong thời gian qua cho thấy, có tỉnh thành lập sở Ngoại vụ, có tỉnh không hoặc chức năng ngoại giao kinh tế chưa được nhấn mạnh trong cơ cấu bộ máy hiện hành. Nhiều nơi vẫn coi ngoại giao là lĩnh vực thuần túy chính trị – đối ngoại, chưa gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế địa phương. Do đó, các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, hợp tác quốc tế chủ yếu do sở Kế hoạch và Đầu tư cũ (nay là sở Tài chính) hoặc Trung tâm Xúc tiến thương mại – du lịch đảm nhiệm, dẫn đến chồng chéo chức năng và thiếu tính chuyên nghiệp làm giảm hiệu quả triển khai ngoại giao kinh tế, khiến các cơ hội hợp tác bị bỏ lỡ.
Thứ ba, hạn chế về năng lực của đội ngũ nhân sự làm công tác ngoại giao kinh tế của tỉnh. Đội ngũ nhân sự nói chung và cán bộ làm công tác ngoại giao kinh tế tại địa phương nhìn chung còn thiếu và yếu, đặc biệt về kiến thức kinh tế quốc tế, kỹ năng đàm phán, năng lực ngoại ngữ, am hiểu pháp luật quốc tế và quản trị ngoại giao kinh tế. Tại các địa phương, cán bộ làm công tác ngoại giao thường kiêm nhiệm, ít được đào tạo chuyên sâu về ngoại giao kinh tế. Sự thiếu hụt này khiến nhiều tỉnh không đủ năng lực để tham gia sâu vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, như: CPTPP, EVFTA, RCEP… những hiệp định đòi hỏi trình độ chuyên môn cao để khai thác hiệu quả.
Thứ tư, phương thức thực thi ngoại giao kinh tế chưa hiệu quả. Một số tỉnh còn nặng về phong trào, hình thức, tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư nhưng thiếu chiến lược dài hạn, thiếu theo dõi và đánh giá sau ký kết các văn bản hợp tác quốc tế. Trong khi đó, nhiều dự án FDI đăng ký tại địa phương nhưng tỷ lệ giải ngân thấp, chủ yếu do sự thiếu phối hợp giữa chính quyền, doanh nghiệp và nhà đầu tư. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính, nhất là trong lĩnh vực đất đai, xây dựng, môi trường, vẫn còn phức tạp, làm giảm niềm tin của nhà đầu tư quốc tế.
Thứ năm, hạn chế trong truyền thông ngoại giao kinh tế. Nhiều địa phương chưa tận dụng hiệu quả truyền thông để quảng bá hình ảnh, tiềm năng, lợi thế kinh tế của mình ra quốc tế. Hoạt động thông tin đối ngoại còn chậm đổi mới, thiếu tính chuyên nghiệp, chủ yếu dừng lại ở các hội chợ, triển lãm truyền thống, chưa khai thác tốt nền tảng số, mạng xã hội quốc tế để tiếp cận đối tác, nhà đầu tư. So sánh với Quảng Ninh, Bình Dương hay Bắc Ninh – những địa phương thành công nhờ gắn kết ngoại giao kinh tế với truyền thông và quảng bá hình ảnh năng động, cho thấy rõ sự chênh lệch này.
Thứ sáu, khó khăn trong huy động và phát huy nguồn lực cho thực thi ngoại giao kinh tế. Một số tỉnh chưa biết tận dụng lợi thế về vị trí địa lý, cộng đồng doanh nghiệp, hay kiều bào để phát triển quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Nhiều nơi vẫn phụ thuộc quá nhiều vào ngân sách nhà nước hoặc vốn hỗ trợ từ Trung ương, thiếu cơ chế xã hội hóa và thu hút nguồn lực tư nhân tham gia, khiến việc triển khai các chương trình ngoại giao kinh tế còn hạn chế cả về quy mô và chiều sâu. Bên cạnh đó, chưa vận dụng lợi thế của chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, tiến bộ của khoa học – công nghệ và lợi thế về nguồn nhân lực để triển khai công tác ngoại giao kinh tế.
Thứ bảy, cơ chế kiểm tra, giám sát và phòng chống tham nhũng trong ngoại giao kinh tế còn bất cập. Một số địa phương chưa xây dựng được hệ thống giám sát minh bạch, hiệu quả đối với các dự án FDI và hoạt động hợp tác quốc tế. Việc thực thi quy định phòng, chống tham nhũng còn nặng hình thức, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, dẫn đến nguy cơ lợi ích nhóm, “xin – cho” trong cấp phép đầu tư, quản lý đất đai và ưu đãi thuế. Đây là một trong những nguyên nhân khiến nhiều nhà đầu tư quốc tế e ngại khi quyết định mở rộng hoạt động tại một số địa phương.
5. Định hướng nghiên cứu quản trị phát triển ngoại giao kinh tế cho chính quyền địa phương cấp tỉnh hiện nay
Một là, nghiên cứu hoàn thiện thể chế về ngoại giao kinh tế.
Thể chế đóng vai trò “khung khổ” pháp lý, bảo đảm tính minh bạch, đồng bộ và bền vững của hoạt động ngoại giao kinh tế. Hiện nay, nhiều tỉnh vẫn thiếu các quy định riêng phù hợp với điều kiện địa phương. Do đó, các tỉnh cần xây dựng cơ chế pháp lý bổ trợ cho chiến lược phát triển kinh tế gắn với hội nhập quốc tế. Chẳng hạn, có thể ban hành nghị quyết chuyên đề của Hội đồng nhân dân về ngoại giao kinh tế, xây dựng quy định khuyến khích đầu tư FDI phù hợp đặc thù, thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành giữa sở Ngoại vụ, sở Tài chính, sở Công Thương. Việc hoàn thiện thể chế không chỉ giúp các tỉnh chủ động trong thu hút đầu tư, xuất khẩu và hợp tác quốc tế mà còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ lợi ích kinh tế địa phương trong các tranh chấp thương mại xuyên biên giới. Quan trọng hơn, cần thay đổi cách tiếp cận xây dựng thể chế trước đây, thay vào đó cần nghiên cứu quy luật vận hành của kỷ nguyên số và xu thế “ngoại giao số”, với cốt lõi tiếp cận từ tích hợp vận hành của dữ liệu số, trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật và công nghệ Blockchain.
Hai là, nghiên cứu hoàn thiện bộ máy quản trị phát triển ngoại giao kinh tế.
Thực tế hiện nay, bộ máy làm công tác ngoại giao kinh tế ở cấp tỉnh còn thiếu thống nhất, có nơi có sở Ngoại vụ riêng, có nơi chưa hình thành hoặc chức năng còn phân tán, chồng chéo và thiếu tính chuyên nghiệp. Giải pháp đặt ra là xây dựng một cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị ngoại giao kinh tế tinh gọn, thống nhất, chuyên trách, kết hợp chức năng nghiên cứu, tham mưu chính sách, xúc tiến thương mại và đầu tư, đồng hành cùng doanh nghiệp địa phương và vận hành theo phương thức ngoại giao số. Các địa phương thí điểm cơ chế đặc thù, như: TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Cần Thơ có thể là hình mẫu trong việc thành lập các trung tâm xúc tiến đầu tư và đối ngoại thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh. Việc tái cấu trúc bộ máy giúp nâng cao năng lực lãnh đạo, phối hợp và trách nhiệm giải trình trong công tác ngoại giao kinh tế.
Ba là, nghiên cứu phát triển đội ngũ nhân lực quản trị ngoại giao kinh tế.
Nhân lực là yếu tố quyết định. Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ hiện nay vẫn còn hạn chế về kỹ năng chuyên môn sâu trong các lĩnh vực như luật pháp quốc tế, đàm phán thương mại, quản lý dự án đầu tư, ngoại ngữ và hiểu biết văn hóa đối tác; đặc biệt còn thiếu năng lực về ngoại giao số trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu. Giải pháp đặt ra là thúc đẩy đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuyên nghiệp hóa, thường xuyên cập nhật kiến thức về các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP); đồng thời, mở rộng hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu và tổ chức quốc tế để nâng cao trình độ và kỹ năng cho cán bộ ngoại giao. Ngoài ra, cần cơ chế luân chuyển, trao đổi nhân sự giữa Bộ Ngoại giao, các bộ, ngành trung ương với địa phương nhằm tạo điều kiện tiếp cận kinh nghiệm thực tiễn. Việc phát triển nhân sự không chỉ đáp ứng nhu cầu hội nhập mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của địa phương trong môi trường toàn cầu hóa.
Bốn là, nghiên cứu hoàn thiện cơ chế và chính sách ngoại giao kinh tế phù hợp với đặc thù của tỉnh.
Mặc dù một số tỉnh được thí điểm cơ chế đặc thù, song đa số các địa phương còn vận hành trong khuôn khổ tương đối cứng nhắc của các chính sách chung, dẫn đến hạn chế trong khai thác lợi thế so sánh và thu hút đầu tư. Do vậy, cần chủ động xây dựng cơ chế linh hoạt và thích ứng, gắn với điều kiện đặc thù, như chính sách ưu đãi thuế, hỗ trợ hạ tầng, cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), thúc đẩy khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu cũng như thúc đẩy các mô hình hợp tác công – tư trong lĩnh vực logistics, thương mại và dịch vụ quốc tế. Thực tiễn cho thấy, các tỉnh, như: Quảng Ninh, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bình Dương dù không có cơ chế đặc thù nhưng vẫn đạt bước đột phá trong thu hút FDI nhờ sự linh hoạt trong chính sách và nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh. Đây là minh chứng rõ ràng rằng, tính sáng tạo, chủ động và năng lực quản trị của chính quyền cấp tỉnh có thể bù đắp những hạn chế về thể chế; đồng thời, tạo động lực phát triển ngoại giao kinh tế bền vững.
Năm là, hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế địa phương gắn với ngoại giao kinh tế.
Quy hoạch không chỉ là công cụ định hướng phát triển dài hạn mà còn là cam kết quản trị của chính quyền địa phương đối với cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư và các đối tác quốc tế. Các tỉnh cần xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế của tỉnh giai đoạn 2026 – 2035, tầm nhìn đến 2045, trong đó ngoại giao kinh tế phải là thành phần trọng tâm, gắn kết với quy hoạch này. Các dự án lớn về hạ tầng, năng lượng, logistics, công nghiệp công nghệ cao cần được lồng ghép vào kế hoạch hợp tác quốc tế của tỉnh. Đồng thời, quy hoạch cũng phải vượt qua giới hạn hành chính truyền thống, tính đến liên kết vùng, chuỗi cung ứng quốc gia và toàn cầu nhằm tạo động lực phát triển bền vững, cân đối và có khả năng thích ứng với biến động bên ngoài. Cách tiếp cận này không chỉ nâng cao năng lực thu hút đầu tư mà còn củng cố vị thế của địa phương trong hệ thống kinh tế quốc tế đang tái cấu trúc mạnh mẽ.
Sáu là, nghiên cứu phương thức huy động và tối ưu hóa nguồn lực cho thực thi ngoại giao kinh tế.
Nguồn lực cho ngoại giao kinh tế không chỉ đến từ ngân sách nhà nước, mà còn từ doanh nghiệp, cộng đồng kiều bào, tổ chức quốc tế. Để làm được điều đó, chính quyền địa phương cần xây dựng và kiến tạo cơ chế hợp tác công – tư (PPP) trong xúc tiến đầu tư, thương mại; huy động kiều hối, chất xám từ cộng đồng hơn 5,3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời, kết nối với các quỹ phát triển quốc tế để tài trợ hạ tầng và đổi mới sáng tạo. Các mô hình thành công, như Bắc Ninh thu hút đầu tư công nghệ cao từ Hàn Quốc; Bình Dương phát triển mô hình thành phố thông minh với sự hỗ trợ của đối tác quốc tế, có thể được nhân rộng. Như vậy, nguồn lực ngoại giao kinh tế không chỉ được bổ sung mà còn được tối ưu hóa. Cần vận dụng nền tảng của dữ liệu số, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật hấp dẫn và công nghệ Blockchain để huy động và tối ưu hóa nguồn lực cho thực thi ngoại giao kinh tế.
Bảy là, nghiên cứu đổi mới công tác truyền thông quốc tế.
Các tỉnh cần xây dựng chiến lược truyền thông quốc tế, sử dụng nền tảng số, trí tuệ nhân tạo và đồng bộ hóa dữ liệu số về ngoại giao kinh tế của địa phương trên trường quốc tế; hợp tác với các hãng truyền thông quốc tế để quảng bá hình ảnh, tiềm năng và môi trường đầu tư. Việc tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư quốc tế, tuần lễ thương hiệu địa phương hoặc gắn kết với các sự kiện lớn (như APEC, ASEAN) sẽ giúp gia tăng sự hiện diện của địa phương trên bản đồ kinh tế toàn cầu. Đây là yếu tố then chốt trong cạnh tranh thu hút FDI, du lịch và thương mại thương mại quốc tế.
Tám là, nghiên cứu phương thức tổ chức thực hiện hiệu quả, chất lượng các dự án kinh tế quốc tế do tỉnh quản lý.
Một số địa phương đã ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác, nhưng khâu thực thi còn yếu, dẫn đến dự án chậm triển khai, hiệu quả thấp. Do đó, cần nghiên cứu nâng cao năng lực quản lý dự án quốc tế, cải thiện quy trình phê duyệt, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ nhà đầu tư sau cấp phép… Ngoài ra, cần cơ chế giám sát cộng đồng, công khai thông tin dự án để bảo đảm tính minh bạch. Khi dự án được triển khai đúng tiến độ và hiệu quả, uy tín địa phương sẽ được nâng cao, tạo hiệu ứng lan tỏa trong thu hút đầu tư.
Chín là, nghiên cứu đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả và chất lượng thực thi ngoại giao kinh tế.
Ngoại giao kinh tế dễ phát sinh rủi ro tham nhũng, đặc biệt trong các lĩnh vực đấu thầu, cấp phép, hải quan, thuế… Một số vụ việc cho thấy sự thiếu minh bạch vẫn tồn tại ở cấp địa phương. Cần nghiên cứu các giải pháp tăng cường kiểm toán độc lập, thanh tra chuyên đề; đồng thời, ứng dụng công nghệ số trong quản lý hải quan, thuế quan và đầu tư. Bên cạnh đó, cần cơ chế hợp tác quốc tế trong điều tra, thu hồi tài sản tham nhũng xuyên biên giới. Sự quyết liệt trong chiến dịch chống tham nhũng của Trung ương cần được tiếp tục lan tỏa xuống cấp tỉnh để củng cố niềm tin của nhà đầu tư và cộng đồng quốc tế.
5. Kết luận
Thực tiễn hội nhập quốc tế sâu rộng, cạnh tranh kinh tế toàn cầu gay gắt, cùng với những biến động khó lường của tình hình chính trị – kinh tế thế giới, đang đặt ra nhiều thách thức cho chính quyền các tỉnh, thành phố. Những vấn đề nổi bật có thể kể đến, như: thể chế và cơ chế chính sách của địa phương còn chưa đồng bộ, thiếu tính đặc thù để khai thác lợi thế so sánh; bộ máy và nhân sự làm công tác ngoại giao kinh tế còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu; công tác quy hoạch phát triển kinh tế gắn với ngoại giao quốc tế và thu hút nguồn lực còn hạn chế; truyền thông và quảng bá hình ảnh kinh tế địa phương ra thế giới chưa tương xứng với tiềm năng; phương thức tổ chức thực thi, giám sát, kiểm tra, đánh giá và phòng chống tham nhũng trong ngoại giao kinh tế chưa theo kịp yêu cầu. Chính vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ vai trò quản trị ngoại giao phát triển kinh tế của chính quyền địa phương cấp tỉnh là hết sức cần thiết, nhằm tận dụng tối đa cơ hội từ hội nhập và vượt qua các thách thức mới.
Chú thích:
1. Trải thảm đỏ đón lao động chất lượng cao. https://baobacninhtv.vn, ngày 28/01/2025.
2. Bình Dương hướng đến trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu Việt Nam. https://becamex.com.vn, ngày 19/9/2024.
3. Tỉnh Quảng Ninh lập tổ công tác đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp. https://congthuong.vn, ngày 07/7/2023.
4. Vai trò của trung tâm hành chính công trong cải cách thủ tục hành chính – từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. https://tapchicongthuong.vn, ngày 24/8/2023.
5. Quảng Ninh đi đầu trong xây dựng chính quyền điện tử. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 30/10/2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 về hội nhập quốc tế.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2016). Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
6. World Bank (2023). Viet Nam Economic Update. https://www.worldbank.org.
7. OECD (2020). Multi-level governance reforms in Viet Nam. https://www.oecd.org.
8. UNCTAD (2022). World Investment Report 2022. https://unctad.org.
9. Transparency International (2024). Corruption Perceptions Index 2024. https://www.transparency.org/en/cpi/2024.
10. Nguyen, T. H. (2020). Vietnam’s economic diplomacy in the context of globalization. Journal of International Studies. https://www.jois.eu.
11. Pham, M. A. (2021). Cải cách hành chính và ngoại giao kinh tế của Việt Nam: Cơ hội và thách thức. Vietnam Journal of Social Sciences. https://vjol.info.vn.
12. Hội nhập quốc tế trong tình hình mới. https://www.tapchicongsan.org.vn.
13. Pham, M. A. (2021). Cải cách hành chính và ngoại giao kinh tế của Việt Nam: Cơ hội và thách thức. Vietnam Journal of Social Sciences. https://vjol.info.vn.