ThS. Nguyễn Phương Linh
Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Ứng phó và Môi trường Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và xu thế chuyển đổi số toàn diện trong nền kinh tế, nông nghiệp thông minh (smart agriculture) đã và đang trở thành xu hướng tất yếu của các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Không chỉ là lời giải cho bài toán năng suất, chất lượng và hiệu quả, nông nghiệp thông minh còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. Thành phố Hải Phòng là trung tâm kinh tế biển, công nghiệp, đồng thời có tiềm năng lớn trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đã có nhiều nỗ lực trong quản lý và triển khai mô hình nông nghiệp thông minh. Tuy nhiên, thực tế triển khai còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập cần được nhận diện và khắc phục.
Từ khóa: Quản lý nông nghiệp, nông nghiệp thông minh, thành phố Hải Phòng.
1. Đặt vấn đề
1. Nông nghiệp thông minh là mô hình sản xuất nông nghiệp hiện đại, trong đó ứng dụng các công nghệ tiên tiến, như: Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ sinh học, công nghệ cảm biến, điều khiển tự động và các phần mềm phân tích để tối ưu hóa các khâu trong chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp. Mô hình này không chỉ tập trung vào tăng năng suất mà còn chú trọng sử dụng hiệu quả tài nguyên, như: nước, đất, năng lượng, đồng thời giảm thiểu rủi ro do biến đổi khí hậu, sâu bệnh và thị trường.
Về bản chất, nông nghiệp thông minh là sự tích hợp giữa công nghệ số và kỹ thuật canh tác truyền thống nhằm hình thành một hệ thống sản xuất hiệu quả, linh hoạt, có khả năng học hỏi và tự điều chỉnh theo thời gian thực. Người sản xuất có thể theo dõi điều kiện môi trường, tình hình cây trồng, vật nuôi từ xa qua thiết bị di động; hệ thống tưới tiêu có thể vận hành tự động dựa trên cảm biến độ ẩm đất; quy trình chăm sóc có thể tối ưu nhờ các thuật toán phân tích dự báo sâu bệnh, thời tiết. Đây chính là nền tảng giúp nông nghiệp chuyển từ mô hình sản xuất dựa vào kinh nghiệm sang mô hình ra quyết định dựa trên dữ liệu.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, phát triển nông nghiệp thông minh đặt ra những yêu cầu mới cho công tác quản lý nhà nước. Trước hết, cần thay đổi tư duy quản lý từ hành chính truyền thống sang quản trị số, trong đó dữ liệu là tài sản cốt lõi. Nhà nước cần chủ động xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp, kết nối với dữ liệu địa phương và mở rộng quyền truy cập hợp lý cho các bên liên quan. Bên cạnh đó, quản lý nhà nước phải đi đầu trong việc ban hành chính sách hỗ trợ chuyển đổi số, từ hạ tầng kỹ thuật, tài chính đến khuyến nông điện tử và bảo vệ quyền lợi số của người nông dân.
Một yêu cầu khác là bảo đảm thể chế pháp lý phù hợp để nông nghiệp thông minh phát triển bền vững. Hiện nay, nhiều khái niệm, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến thiết bị thông minh, phần mềm nông nghiệp số, hay dữ liệu nông nghiệp còn chưa được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật. Do đó, cần có những văn bản hướng dẫn chuyên sâu để các địa phương, doanh nghiệp và người dân dễ dàng áp dụng và tuân thủ.
Tại Việt Nam, các văn bản chỉ đạo chiến lược, như: Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2022), Chương trình chuyển đổi số quốc gia (Chính phủ, 2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 đều xác định nông nghiệp thông minh là hướng phát triển ưu tiên. Những định hướng này không chỉ khẳng định vai trò của đổi mới công nghệ mà còn đặt ra trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện hiệu quả trên phạm vi cả nước.
Như vậy, trong kỷ nguyên số, nông nghiệp thông minh không còn là lựa chọn mà là xu thế tất yếu. Quản lý nhà nước đối với nông nghiệp không chỉ dừng lại ở cấp phép, thanh tra, hỗ trợ sản xuất mà phải chuyển sang vai trò kiến tạo thể chế, dẫn dắt công nghệ, định hướng thị trường và tạo lập môi trường số an toàn, minh bạch, hiệu quả cho mọi thành phần tham gia vào chuỗi giá trị nông nghiệp.
2. Thực trạng quản lý nông nghiệp thông minh tại thành phố Hải Phòng
Sau khi sáp nhập với tỉnh Hải Dương theo Nghị quyết số 1669/NQ-UBTVQH15, thành phố Hải Phòng hiện có diện tích tự nhiên khoảng 3.194,7km², dân số hơn 4,66 triệu người, trong đó khu vực nông thôn chiếm hơn 65% diện tích. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Hải Phòng (2024), toàn thành phố có khoảng 135.000 ha đất sản xuất nông nghiệp, chiếm hơn 42% tổng diện tích tự nhiên. Lực lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đạt trên 300.000 người, tạo cơ sở quan trọng cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp thông minh.
Trong thời gian qua, thành phố đã có nhiều chính sách và chương trình cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp hiện đại. UBND thành phố ban hành Kế hoạch số 128/KH-UBND ngày 21/6/2022 về chuyển đổi số trong ngành Nông nghiệp và Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Một số vùng được chọn làm điểm, gồm: Vĩnh Bảo, An Lão, Tiên Lãng, An Dương, Kim Thành, Tứ Kỳ. Tại đây đã hình thành các mô hình trồng rau thủy canh, nhà màng điều khiển khí hậu, hệ thống tưới nhỏ giọt tự động, chăn nuôi khép kín ứng dụng cảm biến môi trường, giám sát sức khỏe vật nuôi từ xa. Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Môi trường (2024), các mô hình này đã giúp tăng năng suất bình quân 20 – 40% và giảm chi phí nhân công từ 30 – 50%.
Một số hợp tác xã và doanh nghiệp tiêu biểu, như: HTX Nam Cường (An Dương), HTX Gia Xuyên (Gia Lộc), Công ty CP Phát triển Nông nghiệp Toàn Cầu (An Lão) đã triển khai ứng dụng phần mềm quản lý mùa vụ, nhật ký điện tử, mã QR truy xuất nguồn gốc, cảnh báo dịch bệnh, đồng bộ dữ liệu sản xuất theo thời gian thực. Tuy nhiên, mức độ tích hợp công nghệ số, như: IoT, AI, Big Data, blockchain vào chuỗi giá trị nông sản còn rất hạn chế.
Theo Báo cáo số 41/BC-SNN của Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng (2024), toàn thành phố có 140 cơ sở sản xuất nông nghiệp áp dụng công nghệ cao, chiếm khoảng 1,3% tổng số cơ sở sản xuất nông nghiệp. Trong đó có 88 cơ sở trồng trọt (63%), 37 cơ sở chăn nuôi (26,4%) và 15 cơ sở thủy sản (10,7%). Tuy nhiên, số cơ sở đạt mức ứng dụng công nghệ thông minh đúng nghĩa, tức là có tích hợp thiết bị cảm biến, điều khiển tự động và dữ liệu lớn chỉ đạt 17 đơn vị, tương đương 0,13%.
Hiện trạng này cho thấy, khoảng cách giữa công nghệ cao và công nghệ thông minh là khá lớn. Đa số mô hình mới dừng ở mức tự động hóa đơn lẻ hoặc sử dụng thiết bị số không đồng bộ. Nguyên nhân chủ yếu đến từ hạn chế về các mặt thể chế, hạ tầng, nhân lực và tài chính.
Về thể chế, hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật ở cấp địa phương quy định cụ thể tiêu chuẩn nông nghiệp thông minh. Các chính sách hiện hành chủ yếu hỗ trợ nông nghiệp công nghệ cao, chưa bao phủ hết nhu cầu về chuyển đổi số trong chuỗi sản xuất. Điều này gây khó khăn cho việc thẩm định dự án, xây dựng chính sách đầu tư và đánh giá hiệu quả.
Về hạ tầng số, vùng nông thôn có tỷ lệ phủ sóng 4G đạt 91% nhưng chất lượng không ổn định, ảnh hưởng đến việc sử dụng thiết bị kết nối internet, như: camera AI, cảm biến, trạm đo khí tượng nông nghiệp. Trang thiết bị, như: drone, phần mềm chuyên dụng còn thiếu, đặc biệt ở cấp xã.
Cơ sở dữ liệu về đất đai, mùa vụ, cây trồng vật nuôi được xây dựng rải rác theo từng đơn vị quản lý, thiếu liên kết giữa các ngành và cấp hành chính. Việc tích hợp dữ liệu từ các ngành tài nguyên – môi trường, khoa học – công nghệ, thông tin truyền thông chưa hiệu quả, chưa hình thành được bản đồ số hóa nông nghiệp toàn diện trên địa bàn.
Về nguồn nhân lực, theo điều tra của Chi cục Phát triển nông thôn thành phố (2024), chỉ có 18,7% cán bộ khuyến nông cấp xã/phường được tập huấn về công nghệ số; chỉ khoảng 6,8% nông dân và chủ hộ sản xuất có khả năng vận hành hệ thống canh tác tự động. Đa số nông dân mới dừng ở mức nhận thông tin thời tiết qua điện thoại thông minh, chưa tiếp cận sâu với phần mềm chuyên ngành.
Về tài chính, đầu tư cho chuyển đổi số trong nông nghiệp còn hạn chế. Tỷ lệ vốn ngân sách đầu tư cho công nghệ số trong nông nghiệp giai đoạn 2021 – 2025 chỉ chiếm khoảng 1,2% tổng chi nông nghiệp của thành phố. Doanh nghiệp và hộ sản xuất khó tiếp cận tín dụng ưu đãi do thiếu tài sản thế chấp, trong khi các quỹ, như: Quỹ Đổi mới công nghệ, Quỹ Phát triển nông nghiệp công nghệ cao chưa hỗ trợ hiệu quả cho các cơ sở nhỏ và vừa.
Từ những phân tích trên cho thấy, thành phố Hải Phòng (sau sáp nhập) đã có những bước đi ban đầu trong phát triển và quản lý nông nghiệp thông minh, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức về thể chế, công nghệ, nguồn lực và hạ tầng. Đây là cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong giai đoạn tới.
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nông nghiệp thông minh tại thành phố Hải Phòng
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và chính sách đặc thù. Thành phố cần kiến nghị Chính phủ ban hành khung pháp lý riêng cho nông nghiệp thông minh, bao gồm tiêu chí xác định, tiêu chuẩn kỹ thuật và các cơ chế hỗ trợ phù hợp. Đồng thời, UBND thành phố nên chủ động ban hành các quy định hướng dẫn cụ thể về xét chọn mô hình, cơ chế đấu thầu ứng dụng công nghệ, hỗ trợ hợp tác xã và doanh nghiệp chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, đầu tư xây dựng hạ tầng số cho ngành Nông nghiệp. Hải Phòng cần tăng cường ngân sách đầu tư công để phát triển hệ thống kết nối internet tốc độ cao đến các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm; đồng thời hỗ trợ các hợp tác xã và hộ sản xuất lắp đặt hệ thống cảm biến, thiết bị IoT và phần mềm quản lý nông nghiệp thông minh. Việc thiết lập hệ thống trung tâm dữ liệu nông nghiệp tích hợp giữa các sở, ngành, như: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Thông tin và Truyền thông là điều kiện cần thiết để phục vụ dự báo, cảnh báo sâu bệnh và hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực số cho ngành Nông nghiệp. Cần tổ chức các chương trình đào tạo, tập huấn định kỳ về chuyển đổi số, sử dụng cảm biến, phân tích dữ liệu cho cán bộ khuyến nông, lãnh đạo hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp và nông dân. Ngoài ra, cần xây dựng chương trình đào tạo dài hạn tại các trường đại học, cao đẳng địa phương về quản lý nông nghiệp thông minh, kỹ thuật số trong nông nghiệp.
Thứ tư, tăng cường kết nối hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Thành phố nên đẩy mạnh hợp tác giữa Nhà nước, doanh nghiệp, viện nghiên cứu và trường đại học để thúc đẩy nghiên cứu – phát triển (R&D) trong lĩnh vực công nghệ nông nghiệp. Cần có các cơ chế đặt hàng nghiên cứu, hỗ trợ khởi nghiệp nông nghiệp số và thử nghiệm các mô hình nông nghiệp thông minh tại vùng sản xuất quy mô lớn, như: huyện Vĩnh Bảo, An Lão, Tiên Lãng.
Thứ năm, đa dạng hóa nguồn lực tài chính. Hải Phòng cần chủ động lồng ghép mục tiêu chuyển đổi số nông nghiệp vào các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án ODA, đồng thời khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP). Thành phố cũng cần xây dựng cơ chế quỹ hỗ trợ chuyển đổi số trong nông nghiệp, hỗ trợ tín dụng ưu đãi và bảo lãnh vay vốn cho các hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ thông minh.
Thứ sáu, nâng cao năng lực quản lý nhà nước. Cần kiện toàn bộ máy cán bộ làm công tác quản lý nông nghiệp ở cấp xã, huyện theo hướng đa năng, am hiểu công nghệ, có khả năng hướng dẫn kỹ thuật số cho nông dân. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc sử dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, bảo đảm minh bạch và hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực công.
Các giải pháp cần được triển khai đồng bộ, có lộ trình cụ thể và gắn với giám sát đánh giá kết quả đầu ra. Trong điều kiện Hải Phòng vừa được mở rộng sau sáp nhập, đây chính là thời điểm thích hợp để thiết lập một nền tảng quản lý nông nghiệp thông minh mang tính đột phá, giúp thành phố vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững và hội nhập kinh tế số.
4. Kết luận
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang là xu thế tất yếu của thời đại, việc phát triển nông nghiệp thông minh tại thành phố Hải Phòng không chỉ là yêu cầu nội tại của ngành nông nghiệp mà còn là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của khu vực nông thôn mở rộng sau sáp nhập. Thực tế cho thấy, dù đã có một số kết quả bước đầu, song quá trình ứng dụng công nghệ thông minh trong sản xuất nông nghiệp tại Hải Phòng vẫn còn khiêm tốn về quy mô, manh mún về tính liên kết và thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng, chính sách và nhân lực.
Quản lý nhà nước đóng vai trò trung tâm trong việc định hướng, tổ chức thực hiện và giám sát chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp. Sự thiếu hụt về thể chế, thiếu kết nối dữ liệu, hạn chế trong năng lực cán bộ và người sản xuất, cùng với nguồn lực tài chính chưa được phân bổ hợp lý đang là những rào cản lớn cần phải tháo gỡ. Chỉ khi có sự thay đổi mạnh mẽ từ tư duy quản lý đến cách thức tổ chức thực hiện, thành phố Hải Phòng mới có thể tận dụng hết tiềm năng đất đai, lao động và các nguồn lực đổi mới sáng tạo để xây dựng một nền nông nghiệp thông minh thực sự.
Trong thời gian tới, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, các tổ chức tài chính và cộng đồng nông dân để cùng kiến tạo hệ sinh thái nông nghiệp số. Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường mà còn góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân nông thôn và thúc đẩy quá trình đô thị hóa bền vững của Hải Phòng trong thời kỳ hậu sáp nhập.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2022). Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hà Nội.
2. Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 về chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030.
3. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng (2023). Báo cáo số 41/BC-SNN về kết quả phát triển nông nghiệp công nghệ cao năm 2022 – 2023.
4. UNESCAP (2019). Smart Agriculture and Data for Better Policies. United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific.
5. World Bank (2021). Transforming Agriculture in the Digital Age. Washington, DC.



